
DI SẢN UNESCO Ở HÀ NỘI: KHAI PHÓNG GIÁ TRỊ TRONG DÒNG CHẢY HIỆN ĐẠI - Bài 1: Từ cội nguồn di sản đến thành phố sáng tạo: Nguồn lực mềm cho phát triển bền vững
Hà Nội - Nơi lắng hồn núi sông ngàn năm - Nơi hội tụ những giá trị văn hóa đặc sắc, trong đó các di sản được UNESCO vinh danh, không chỉ là niềm tự hào của người dân Thủ đô mà còn là tài sản vô giá của dân tộc trên bản đồ văn hóa thế giới.
Những năm qua, với sự chỉ đạo sát sao của các cấp ủy Đảng, chính quyền thành phố Hà Nội, cùng sự vào cuộc của các cơ quan chuyên môn, cộng đồng và các nghệ nhân, công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản UNESCO đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, vẫn còn những thách thức và khoảng trống cần được lấp đầy để di sản UNESCO tiếp tục tỏa sáng trong dòng chảy hiện đại, nhất là góp phần đưa văn hoá trở thành “sức mạnh mềm” quốc gia trong kỷ nguyên phát triển mới.
Báo Quân đội nhân dân giới thiệu loạt bài: “Di sản UNESCO ở Hà Nội: Khai phóng giá trị trong dòng chảy hiện đại”.
Hà Nội đang cùng cả nước bước vào một thời kỳ phát triển mới, trong đó văn hóa được xác định là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc phát triển. Với hệ thống di sản văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú, đặc sắc, Hà Nội không chỉ tự hào là nơi lưu giữ nhiều “bảo tàng sống” của văn hoá dân tộc mà còn là nơi tiên phong biến di sản thành nguồn lực mềm cho phát triển công nghiệp văn hóa và kinh tế sáng tạo trong thời kỳ mới.
Với bề dày hơn 1.000 năm lịch sử, Hà Nội là nơi hội tụ và tỏa sáng những giá trị văn hóa lớn lao của dân tộc. Trên địa bàn có hàng nghìn di tích, trong đó có 16 di tích, cụm di tích được xếp hạng quốc gia đặc biệt, gần 1.200 di tích cấp quốc gia, hàng nghìn di tích cấp thành phố và 34 bảo vật quốc gia. Đây là hệ thống di sản có mật độ cao nhất cả nước, phản ánh rõ nét lịch sử hình thành, phát triển và chiều sâu văn hóa đặc trưng không chỉ của Thăng Long – Hà Nội, mà còn là của cả dân tộc.
Gắn liền với hệ thống di tích lịch sử là hệ thống lễ hội truyền thống phong phú, đa dạng về quy mô và hình thức, góp phần tôn vinh những giá trị văn hóa đặc sắc của Thăng Long – Hà Nội. Nhiều lễ hội tiêu biểu mang tầm quốc gia và quốc tế, ngoài Hội Gióng tại đền Sóc và đền Phù Đổng còn có hội Cổ Loa, hội chùa Hương, lễ hội Đống Đa, hội chùa Thầy, hội chùa Tây Phương, hội chùa Trăm Gian...
Không gian văn hóa làng nghề cũng là nét đặc sắc làm nên bản sắc Thủ đô. Hà Nội hiện có hàng nghìn làng nghề, trong đó nhiều làng nghề thủ công truyền thống đã tồn tại hàng trăm năm với những sản phẩm độc đáo, tinh xảo: Gốm Bát Tràng, lụa Vạn Phúc, tranh Hàng Trống, đồ đồng Ngũ Xã, sơn mài Hạ Thái... Cùng với đó là những làng hoa, làng cây cảnh nổi tiếng như Nhật Tân, Quảng Bá, Nghi Tàm, Tây Tựu, Mê Linh..., góp phần làm nên vẻ đẹp sinh thái và nghệ thuật của Hà Nội.
Ẩm thực Thăng Long – Hà Nội là kho báu văn hóa ẩm thực Việt Nam, với những món ăn nức tiếng gần xa: Cốm làng Vòng, phở Hà Nội, bún chả, bún thang, bún ốc, bánh cuốn Thanh Trì, chả cá Lã Vọng, bánh tôm Hồ Tây...
Bên cạnh đó, Hà Nội còn là cái nôi của nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống và sinh hoạt văn hóa dân gian độc đáo, như ca trù, xẩm, hát văn – những di sản văn hóa phi vật thể được thế giới ghi nhận. Đây chính là nguồn lực mềm quý giá, góp phần tạo nên sức hấp dẫn riêng có của Thủ đô đối với bạn bè trong nước và quốc tế.
Tiêu biểu cho tiến trình hội nhập và phát triển, Hà Nội vinh dự là địa phương sở hữu nhiều di sản (6 di sản) đã được UNESCO ghi danh, khẳng định tầm vóc văn hóa quốc gia trên bản đồ thế giới. Năm 2009, nghệ thuật Ca trù – loại hình âm nhạc bác học gắn với lễ hội, tín ngưỡng và văn chương truyền thống – được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại. Tiếp đó, năm 2010, ba di sản liên tiếp được vinh danh: Hoàng thành Thăng Long – di tích lịch sử – khảo cổ độc đáo phản ánh sự tiếp nối quyền lực của các triều đại phong kiến Việt Nam suốt hơn 13 thế kỷ – trở thành Di sản Văn hóa Thế giới; Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc – biểu tượng anh hùng và sức mạnh dân tộc – được ghi danh là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại; 82 bia tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám – những “trang sách đá” lưu danh hiền tài thời Lê – Mạc, được công nhận là Di sản tư liệu khu vực châu Á – Thái Bình Dương (2010), sau đó mở rộng ra phạm vi toàn cầu (2011), và đến năm 2015 chính thức được xếp hạng Bảo vật Quốc gia. Năm 2015, nghi lễ và trò chơi kéo co – nét văn hóa dân gian tiêu biểu của cư dân trồng lúa nước – tiếp tục được UNESCO ghi danh là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Năm 2016, di sản thứ sáu là Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt được công nhận.
Hà Nội là địa phương đứng đầu cả nước về số lượng di sản văn hóa, phong phú và đa dạng về loại hình phân bổ ở địa bàn các quận, huyện, thị xã. Trên địa bàn Thành phố hiện có 6.489 di tích, 1.973 di sản văn hóa phi vật thể, trong đó có 01 di sản văn hóa thế giới, 05 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh (Trong đó có các di sản văn hóa phi vật thể liên tỉnh), 23 di tích, cụm di tích quốc gia đặc biệt, 1.165 di tích cấp quốc gia, 1.600 di tích cấp thành phố, 39 di sản văn hóa phi vật thể được ghi vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, 1.095 lễ hội truyền thống, 1.350 làng nghề và làng có nghề, trong đó có trên 300 làng nghề truyền thống. Năm 1999, Hà Nội được UNESCO trao tặng danh hiệu “Thành phố vì hòa bình”; năm 2019 được UNESCO ghi danh vào mạng lưới các thành phố sáng tạo thế giới. Cuối năm 2024, hai làng nghề Bát Tràng và Vạn Phúc được ghi danh vào mạng lưới các thành phố thủ công sáng tạo của thế giới. Thời gian qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hà Nội luôn nỗ lực không ngừng để quản lý, bảo tồn phát huy giá trị di sản văn hóa, xứng đáng với các danh hiệu cao quý mà UNESCO đã trao tặng và đây chính là một trong những động lực thúc đẩy công cuộc phát triển Thủ đô trong thời kỳ hội nhập.
------------- Chủ tịch Hiệp hội UNESCO Hà Nội Trương Minh Tiến ------------
Hệ thống di sản đồ sộ là niềm tự hào, minh chứng thuyết phục cho sức sống bền vững và giá trị nhân loại của văn hóa Hà Nội. Đây cũng là nguồn lực mềm to lớn, góp phần củng cố vị thế Thủ đô, thúc đẩy phát triển bền vững gắn với bảo tồn di sản, xây dựng Hà Nội thực sự trở thành trung tâm văn hóa tiêu biểu của cả nước và khu vực.
Cùng với các giải pháp đồng bộ, UBND TP đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, yêu cầu UBND các quận, huyện phối hợp với Sở Văn hóa và Thể thao tổ chức quản lý, phục hồi di tích đúng pháp luật, công khai, minh bạch, có sự tham gia giám sát của người dân. Thành phố phối hợp chặt chẽ với UNESCO và các chuyên gia trong, ngoài nước trong quản lý di sản thế giới, thực hiện các cam kết quốc tế, đẩy mạnh khảo cổ, quảng bá văn hóa phi vật thể.
Trước yêu cầu phát triển bền vững trong bối cảnh đô thị hóa và hội nhập quốc tế, Hà Nội xác định rõ di sản không chỉ là “quá khứ được lưu giữ”, mà phải trở thành “nguồn lực sống” cho hiện tại và tương lai. Quan điểm này đã được thể hiện rõ trong các chiến lược phát triển văn hóa của thành phố giai đoạn mới.
Từ năm 2012, Hà Nội đã xác định phát triển du lịch văn hóa là trọng tâm trong quy hoạch tổng thể phát triển du lịch. Năm 2021 ban hành Chương trình số 06-CTr/TU của Thành ủy về “Phát triển văn hóa, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh giai đoạn 2021-2025”. Đến năm 2022, Hà Nội là địa phương đầu tiên trong cả nước ban hành nghị quyết về phát triển công nghiệp văn hóa (Nghị quyết số 09-NQ/TU), đặt mục tiêu đến năm 2045, công nghiệp văn hóa sẽ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp ngày càng lớn vào GRDP Thủ đô.
Nhiều điểm di tích trọng điểm được ưu tiên đầu tư như Hoàng thành Thăng Long, Thành Cổ Loa, các làng nghề truyền thống gắn với du lịch. Các dự án khai thác, bảo tồn và phát huy giá trị di sản, trải nghiệm, quảng bá văn hóa đã được đẩy mạnh, như: Không gian đi bộ hồ Gươm và phố cổ, phố sách Hà Nội, phố bích họa Phùng Hưng, Hàng Buồm, Lãn Ông, chương trình thực cảnh “Tinh hoa Bắc Bộ”, xe buýt hai tầng phục vụ du lịch văn hóa... Bên cạnh đó, Hà Nội cũng chú trọng phát triển các sản phẩm văn hóa có giá trị thương mại gắn với biểu tượng di sản, như bộ sưu tập quà tặng lưu niệm mang hình ảnh Văn Miếu, Tháp Rùa, Khuê Văn Các, phố cổ Hà Nội..., giúp tạo chuỗi giá trị bền vững trong ngành công nghiệp sáng tạo.
Ngoài ra, Lễ hội Thiết kế sáng tạo Hà Nội – sự kiện thường niên quy mô lớn trong khuôn khổ Mạng lưới các thành phố sáng tạo UNESCO với những hoạt động phong phú, từ trưng bày nghệ thuật, trình diễn âm thanh, hội chợ sáng tạo đến phục dựng không gian di sản công nghiệp như Nhà máy xe lửa Gia Lâm, tháp nước Hàng Đậu. Qua đó, Hà Nội chuyển hóa những địa điểm tưởng như đã “ngủ quên” thành tổ hợp văn hóa sáng tạo, nơi kích thích trí tưởng tượng, kết nối cộng đồng sáng tạo và thúc đẩy kinh tế.
Đặc biệt, Hà Nội tập trung đầu tư bài bản cho sản phẩm văn hóa tại các điểm di tích, từ thiết kế, trưng bày, tổ chức sự kiện đến đào tạo nhân lực tại chỗ. Các làng nghề truyền thống như: Bát Tràng, Vạn Phúc, Hạ Thái, Hồng Vân... được quy hoạch lại với hạ tầng du lịch hoàn chỉnh, xây dựng không gian trải nghiệm, trung tâm giới thiệu sản phẩm và tổ chức các sự kiện kết nối du lịch – văn hóa – thương mại.
Việc gìn giữ, phát huy giá trị di sản đang được Hà Nội triển khai theo hướng tích hợp đa chiều: Vừa bảo tồn nguyên vẹn, vừa ứng dụng sáng tạo; vừa tôn trọng truyền thống, đồng thời khai thác tiềm năng phát triển. Theo đó, Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội đã ban hành Nghị quyết số 24/NQ-HĐND xác lập danh mục các di tích, di sản, tuyến phố, công trình kiến trúc đặc trưng cần tập trung bảo vệ, tôn tạo, phát huy giá trị.
Các di sản được bảo tồn không chỉ để “giữ gìn vẻ đẹp xưa cũ”, mà quan trọng hơn là làm cơ sở cho việc quy hoạch không gian đô thị, phát triển văn hóa đô thị mới. Định hướng xây dựng Hà Nội thành “Thành phố sáng tạo”, “Thành phố của hòa bình” và “Thành phố đáng sống” đều lấy di sản văn hóa làm cốt lõi. Đây là bước đi chiến lược trong xây dựng “sức mạnh mềm” của Thủ đô và khẳng định vị thế Hà Nội trên bản đồ khu vực và thế giới.
Hà Nội cũng đặt trọng tâm phát triển nguồn nhân lực văn hóa – những người gìn giữ và sáng tạo – thông qua tổ chức các cuộc thi thiết kế, các hội thảo quốc tế, các chương trình nghệ thuật đương đại và truyền thống, kết hợp các hình thức giáo dục di sản trong nhà trường và cộng đồng. Không gian sáng tạo ngày càng lan tỏa, từ phố cổ đến vùng ngoại thành, từ các khu di tích đến các nhà máy cũ...
Một trong những đột phá quan trọng giúp Hà Nội chuyển từ “bảo tồn tĩnh” sang “bảo tồn động”, từ “gìn giữ nguyên trạng” sang “phát huy giá trị” chính là thay đổi tư duy tiếp cận di sản; khẳng định vai trò trung tâm của cộng đồng và thúc đẩy ứng dụng công nghệ, số hóa, xã hội hóa, từng bước nâng cao nhận thức và năng lực giữ gìn di sản của người dân. Nếu như trước đây, di sản thường bị bó hẹp trong không gian bảo tàng, tôn nghiêm và cách biệt với đời sống đương đại, thì nay, nhiều sáng kiến đã đưa di sản trở lại với cộng đồng, thổi luồng sinh khí mới, đặc biệt thông qua công nghệ số và các nền tảng truyền thông hiện đại.
Hà Nội đang tiên phong áp dụng chuyển đổi số trong công tác quản lý, bảo tồn và quảng bá di sản. Các ứng dụng tham quan di tích bằng công nghệ 3D, thực tế ảo (VR), thực tế tăng cường (AR) tại Hoàng thành Thăng Long, Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Bảo tàng Hà Nội... không chỉ nâng cao trải nghiệm cho người xem, mà còn mở ra cơ hội tiếp cận di sản cho đông đảo công chúng trong và ngoài nước. Những sản phẩm số này đang góp phần “trẻ hóa” di sản, khiến giới trẻ thêm hứng thú tìm hiểu lịch sử, văn hóa dân tộc bằng ngôn ngữ công nghệ. Đồng thời, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho các sản phẩm thủ công truyền thống, nhãn hiệu làng nghề hay thiết kế sáng tạo gắn với di sản cũng được quan tâm đẩy mạnh.
Một điểm đáng chú ý khác là sự tham gia ngày càng sâu rộng của cộng đồng – từ người dân địa phương, nghệ nhân, nhà nghiên cứu đến giới trẻ khởi nghiệp sáng tạo – trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Không chỉ là “đối tượng thụ hưởng”, họ trở thành chủ thể sáng tạo, từ đó thúc đẩy các mô hình du lịch cộng đồng, trải nghiệm di sản, giáo dục ngoài nhà trường, nghệ thuật đương đại kết hợp yếu tố truyền thống...
Trong thời đại hội nhập quốc tế sâu rộng, các giá trị di sản của Hà Nội còn đóng vai trò như “tấm hộ chiếu mềm” đưa hình ảnh Thủ đô và Việt Nam ra thế giới. Nhiều chương trình giao lưu, biểu diễn nghệ thuật dân gian, triển lãm di sản được tổ chức tại các sự kiện quốc tế lớn; những giá trị của phở Hà Nội, Tết cổ truyền, âm nhạc dân gian, thư pháp hay kiến trúc cổ... đang dần trở thành biểu tượng nhận diện văn hóa quốc gia. Sự gắn kết giữa truyền thống và hiện đại, giữa bảo tồn và phát triển chính là chìa khóa để Hà Nội xây dựng một nền kinh tế văn hóa bền vững. Mỗi dự án là một nỗ lực sáng tạo để “kể lại câu chuyện di sản” bằng ngôn ngữ của thời đại, tạo ra sản phẩm văn hóa du lịch hấp dẫn, vừa góp phần gìn giữ kiến trúc, nếp sống truyền thống, vừa tạo sinh kế cho người dân.
Khi di sản không còn nằm yên trên giấy chứng nhận, mà trở thành trải nghiệm sống động cho người dân và du khách, thì đó chính là lúc văn hóa vừa là cội nguồn, vừa là động lực, sức mạnh nội sinh để Hà Nội phát triển thịnh vượng, bản sắc và hiện đại cả vật chất lẫn tinh thần. Khi văn hóa được xem là nguồn lực phát triển, không chỉ để nhớ mà để sống, mỗi công trình, lễ hội, làng nghề, nhịp sống phố phường đều góp phần vào chiến lược phát triển bền vững. Thực tiễn cho thấy, từ kho tàng ngàn năm, Hà Nội đang dần khẳng định vai trò trung tâm sáng tạo trong kỷ nguyên mới.
- Nội dung: NHÓM PHÓNG VIÊN BÁO QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
- Ảnh: TTXVN, vietnamplus, vanmieunighttour.com, CTV
- Kỹ thuật, đồ họa: TÔ NGỌC