
Liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào - Campuchia: Ba dân tộc chung khát vọng độc lập: Bài 3: Đoàn kết ba nước Đông Dương trong Đại thắng mùa Xuân 1975
Ngay sau thất bại của thực dân Pháp tại Điện Biên Phủ, đế quốc Mỹ đã ráo riết can thiệp, hòng biến Đông Dương thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Một lần nữa, nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia lại tiếp tục kề vai sát cánh liên minh tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước...
Phối hợp chiến đấu chống kẻ thù chung
Trước dã tâm xâm lược của đế quốc Mỹ, phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và trách nhiệm với sự nghiệp cách mạng chung của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia, Đảng Lao động Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, sớm xác định: Để chiến thắng đế quốc Mỹ mạnh hơn ta gấp bội, chúng ta phải luôn giương cao ngọn cờ quốc tế vô sản..., chủ động đề ra và nhất quán thực hiện những quyết sách về đoàn kết, liên minh với hai nước láng giềng là Lào và Campuchia nhằm tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ giúp đỡ của bạn bè quốc tế, bồi dưỡng mạnh mẽ thực lực kháng chiến của ta; đồng thời, ra sức giúp đỡ các nước bạn xây dựng, củng cố và tăng cường thực lực cách mạng, thực hiện đoàn kết thành một khối thống nhất vững chắc chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai.
Đề cập vấn đề nêu trên, Trung tướng, PGS, TS Nguyễn Đức Hải, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược Quốc phòng cho biết: “Sau Hiệp định Geneve 1954, cả ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia đều giành được độc lập, chủ quyền, được thế giới thừa nhận về pháp lý, có đường lối và chính sách riêng, nhưng ở mức độ khác nhau, có tính phức tạp riêng của mỗi nước. Nhưng ba nước đều có nguyện vọng, mưu cầu chung là cùng nhau bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước, chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng”.
Trong đó, để đối phó thắng lợi với âm mưu của đế quốc Mỹ - cường quốc quân sự hàng đầu thế giới, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định phải ra sức củng cố sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh đoàn kết quốc tế, trước hết là củng cố vun đắp liên minh đoàn kết với Lào và Campuchia để làm tăng thêm sức mạnh quốc gia, làm thất bại kế hoạch chiến lược của Mỹ.
Đại tá Trần Văn Thông, nguyên Phó vụ trưởng Vụ Lào - Campuchia, nguyên Tham tán Chính trị Đại sứ quán Việt Nam tại Campuchia cho biết: “Với tinh thần tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là chính, đồng thời ra sức tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ của bạn bè quốc tế để xây dựng, nhanh chóng phát triển lực lượng cả về quốc phòng, kinh tế, ngoại giao; về quân sự xây dựng phát triển các đơn vị chủ lực, từng bước trang bị hiện đại và làm hết sức mình giúp đỡ lực lượng kháng chiến của Lào và Campuchia; triển khai thực hiện tư tưởng đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đó là: Việt Nam-Lào-Campuchia đoàn kết thành một khối vững mạnh chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai ở mỗi nước”.
Với sức mạnh đoàn kết của nhân dân ba nước Đông Dương đã góp phần đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải triển khai chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở Việt Nam. Đồng thời, đế quốc Mỹ phát triển chiến tranh xâm lược Lào và phá hoại nền hòa bình, trung lập tiến bộ của Vương quốc Campuchia dưới sự lãnh đạo của Quốc trưởng Norodom Sihanouk…
Đánh bại chiến lược “Đông Dương hóa chiến tranh”
Từ năm 1970, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh, tiến đánh sang Campuchia, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã chủ động phối hợp hoạt động, giúp đỡ bạn phát triển nhanh lực lượng vũ trang, phối hợp mở các chiến dịch chiến đấu mới, tổ chức các chiến dịch phản công lớn, giải phóng nhiều vùng đất đai, nối liền căn cứ giải phóng, tạo ra một cục diện mới, chưa từng có ở Campuchia khiến Mỹ rơi vào thế lúng túng, bị động đối phó trên cả chiến trường Việt Nam và Campuchia.
Đại tá Trần Văn Thông cho biết: Quân tình nguyện Việt Nam đã sát cánh cùng quân đội và nhân dân hai nước Lào và Campuchia giữ gìn và phát triển lực lượng cách mạng, hiệp đồng tác chiến, đập tan các cuộc tấn công càn quét quy mô lớn của Mỹ và chư hầu khi chúng mở rộng chiến tranh xâm lược trên toàn cõi Đông Dương, đẩy Mỹ và quân đội ngụy quyền Lon Nol rơi vào thế bị động. Đế quốc Mỹ gặp nhiều khó khăn trong triển khai chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, mở rộng chiến lược “Đông Dương hoá chiến tranh”, thúc đẩy chiến tranh ở Lào và mở rộng xâm lược Campuchia.
Về vấn đề này, Trung tướng, PGS, TS Nguyễn Đức Hải cho biết, trước đó, từ ngày 1 đến 9-3-1965, Hội nghị nhân dân ba nước Đông Dương đã diễn ra tại Phnom Penh (Campuchia) để biểu thị tình đoàn kết chống đế quốc Mỹ, chống âm mưu chia rẽ của kẻ thù. Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược ra toàn Đông Dương, để tăng cường tình đoàn kết liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung giữa nhân dân ba nước, trong hai ngày 24 và 25-4-1970, Hội nghị cấp cao nhân dân ba nước Đông Dương đã diễn ra gần khu vực biên giới Việt Nam-Trung Quốc-Lào. Hội nghị ra Tuyên bố chung, nêu rõ “quyết tâm bảo vệ, phát triển tình hữu nghị anh em và quan hệ láng giềng tốt giữa ba nước trong khi ủng hộ lẫn nhau chống kẻ thù chung, cũng như sau này trong việc hợp tác lâu dài xây dựng đất nước theo con đường riêng của mình”.
Sau hội nghị nêu trên, tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân ba nước Đông Dương ngày càng phát triển, giành được những thắng lợi quyết định, tạo bước ngoặt cho cuộc kháng chiến. Trong đó, tại Lào, Quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp với quân dân Lào đánh bại cuộc hành quân Cù Kiệt của đế quốc Mỹ và phái hữu, tiếp đó giành thắng lợi trong Chiến dịch Đường 9-Nam Lào (1971), Chiến dịch phòng ngự Cánh đồng Chum-Xiêng Khoảng (1972). Tại Campuchia, Quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia đã đánh bại cuộc hành quân “Chen La I” (6-1970), “Toàn Thắng” (2-1971) và “Chen La II” (8-1971) của đế quốc Mỹ...
Đại tá Trần Văn Thông cho biết, sau những thất bại nặng nề, liên tiếp về quân sự trên chiến trường ba nước Đông Dương, nhất là tại chiến trường chính Việt Nam, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris (27-1-1973), cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; chấp nhận để chính quyền tay sai ký Hiệp định Viêng Chăn (21-2-1973) về lập lại hòa bình, thực hiện hòa hợp dân tộc lần thứ ba ở Lào. Tại Campuchia, lực lượng kháng chiến phát triển nhanh, giành thế chủ động trên chiến trường, giải phóng được hơn 2/3 đất đai, kiểm soát nhiều vùng nông thôn, thị trấn, thị xã, uy hiếp thủ đô Phnom Penh. Các vùng giải phóng ba nước được mở rộng, hình thành thế liên hoàn vững chắc, tạo điều kiện để lực lượng vũ trang ba nước tiếp tục hỗ trợ lẫn nhau đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ đi đến ngày thắng lợi hoàn toàn.
Biểu tượng sáng ngời của liên minh chiến đấu Việt Nam-Lào-Campuchia
Ra đời từ yêu cầu khách quan của lịch sử, đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh đã trở thành biểu tượng sáng ngời về tình đoàn kết thủy chung, trong sáng, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thực sự tin cậy, gắn bó, chân thành hợp tác, giúp đỡ nhau vì lợi ích chung của mỗi nước. Thiếu tướng Võ Sở, nguyên Chính ủy Binh đoàn 12, Chủ tịch Hội Truyền thống Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh Việt Nam cho biết: Ý nghĩa và vai trò của Đường Trường Sơn là rất lớn; thể hiện được quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.
“Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh là biểu tượng sinh động, thể hiện hiệu quả sự đoàn kết chiến đấu anh em giữa Đảng, quân đội và nhân dân ba nước Đông Dương trong sự nghiệp đấu tranh chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ. Đường Hồ Chí Minh là căn cứ địa vững chắc, là điểm tựa, là bàn đạp để cách mạng mỗi nước Đông Dương phát triển, đi tới thắng lợi”- Thiếu tướng Võ Sở nhấn mạnh.
Đặc biệt, trong những năm 1970-1971, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra toàn Ðông Dương, đồng thời huy động một bộ phận lực lượng tiến công tuyến vận tải chiến lược của ta với cường độ ác liệt hơn, bằng nhiều loại vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại nhằm thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, “Lào hóa chiến tranh” và “Khmer hóa chiến tranh”...
Trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến (1973-1975), tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn cấp tốc được mở rộng và kéo dài. Trong đó, chỉ trong hai năm 1973-1974, tuyến vận tải chiến lược đã vận chuyển chi viện cho chiến trường Lào, Campuchia và miền Nam Việt Nam một khối lượng vật chất gấp 3,8 lần giai đoạn 1969-1972 và bằng 65,5% tổng khối lượng vận chuyển chi viện trong 17 năm trước đó (1955-1972), tạo điều kiện thuận lợi cho các nước bạn tiến lên giành thắng lợi vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến.
Thực tế lịch sử cho thấy, những nơi đường Trường Sơn đi qua, nhân dân các bộ tộc Lào và nhân dân Campuchia đã tích cực đóng góp công sức xây dựng, bảo vệ con đường, chở che, giúp đỡ bộ đội Trường Sơn...
Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Quyết định xây dựng tuyến chi viện chiến lược đường Hồ Chí Minh… là biểu hiện tình đoàn kết quốc tế đặc biệt Việt Nam, Lào, Campuchia… là một trong những yếu tố chiến lược có ý nghĩa quyết định đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi cuối cùng”.
Sức lan tỏa từ Đại thắng mùa Xuân năm 1975
B
ước sang năm 1975, bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Lào và Campuchia giành thắng lợi cuối cùng.
Ngày 17-4-1975, Thủ đô Phnom Penh được giải phóng. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Campuchia kết thúc không chỉ là kết quả đấu tranh của một dân tộc có truyền thống kiên cường, bất khuất, được phát huy cao độ bởi một đường lối đúng đắn, sáng tạo, mà còn là thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương, trong đó có sự hỗ trợ, giúp đỡ của nhân dân Việt Nam.
Tại Lào, tháng 5-1975, Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã kiên quyết và kịp thời phát động đấu tranh bằng “ba đòn chiến lược” (nổi dậy của quần chúng, tiến công bằng quân sự và gây áp lực, nổi dậy ly khai của một bộ phận binh sĩ) và “mũi đấu tranh pháp lý” giành quyền làm chủ trong cả nước, dẫn đến sự ra đời của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào vào ngày 2-12-1975.
Trong năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ba nước Đông Dương đã kết thúc thắng lợi. Trong đó, Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc toàn thắng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đây là thắng lợi của sức mạnh đoàn kết dân tộc kết hợp với sức mạnh quốc tế thời đại, trong đó có sự đóng góp to lớn, quan trọng của liên minh đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia.
Thượng tá, TS Trần Anh Tuấn, Phó trưởng phòng Nghiên cứu quốc tế, Viện Chiến lược và Lịch sử quốc phòng Việt Nam cho rằng: Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, liên minh đoàn kết chiến đấu Việt Nam-Lào-Campuchia được hình thành trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã được tiếp tục xây dựng, củng cố và phát triển trong điều kiện lịch sử mới: Cả ba dân tộc đều đứng lên chống lại kẻ thù chung là đế quốc Mỹ xâm lược. Liên minh đoàn kết chiến đấu giữa ba nước đã phát huy vai trò, tác dụng to lớn không chỉ đối với công cuộc giải phóng của dân tộc Việt Nam mà còn có vai trò, tác dụng trực tiếp đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân hai nước Lào và Campuchia.
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 không chỉ là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam mà còn là nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với các dân tộc đang đấu tranh vì độc lập, tự do trên toàn thế giới... Như Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (năm 1976) đã khẳng định: “Thắng lợi của chúng ta cũng là thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu không gì lay chuyển nổi của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia, của mối quan hệ đặc biệt đã có từ lâu trong lịch sử và được thử thách trong ngọn lửa cách mạng chống kẻ thù chung của ba dân tộc” .
Học giả Uch Leang, Quyền vụ trưởng Vụ Nghiên cứu Á-Phi và Trung Đông, Viện Quan hệ quốc tế thuộc Viện Hàn lâm Hoàng gia Campuchia (RAC), Chủ tịch Hội cựu sinh viên Campuchia học tập tại Việt Nam (CAVA): “Đại thắng mùa Xuân năm 1975 không chỉ là một chiến thắng lịch sử vĩ đại của nhân dân Việt Nam, mà còn được coi là sự kiện quốc tế có tầm ảnh hưởng sâu rộng, là một dấu mốc quan trọng trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và công bằng của các dân tộc trên toàn cầu... Đặc biệt, việc đánh bại đế quốc Mỹ tại Đông Nam Á đã làm chấn động toàn cầu, khiến nước Mỹ lâm vào tình thế khó khăn chưa từng có và làm suy yếu hệ thống chủ nghĩa đế quốc. Chiến thắng 30-4-1975 đem lại niềm tin và sự cổ vũ đối với hàng triệu người trên thế giới đang đấu tranh vì hòa bình, độc lập, tự do, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”.
Có thể khẳng định, tình đoàn kết giữa nhân dân và quân đội ba nước Đông Dương được tôi luyện qua những năm đấu tranh giành độc lập, tự do là cơ sở vững chắc để tiếp tục phát huy trong giai đoạn hiện nay. Việt Nam-Lào-Campuchia luôn sát cánh cùng nhau hợp tác trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hỗ trợ nhau cùng phát triển.
- Nội dung: Nhóm Phóng viên Báo Quân đội nhân dân
- Ảnh: Tư liệu, CTV
- Kỹ thuật, đồ họa: TÔ NGỌC