
Liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào - Campuchia: Ba dân tộc chung khát vọng độc lập: Bài 2: Liên minh chiến đấu - Vì Đông Dương là một chiến trường
Cuộc kháng chiến của ba nước Đông Dương ngày càng phát triển, nhiệm vụ liên minh chiến đấu ngày càng nặng nề. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mối quan hệ giữa ba nước ngày càng được củng cố, phát triển sâu sắc hơn, từ tình cảm láng giềng trở thành tình hữu nghị anh em, tình đoàn kết, liên minh giữa Việt Nam, Lào và Campuchia trên tất cả các mặt, tiêu biểu là liên minh quân sự, chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954).
Quy tụ sức mạnh toàn Đông Dương
N
hìn lại lịch sử, từ năm 1930 đến tháng 2-1951, Đảng Cộng sản Đông Dương trực tiếp tổ chức và lãnh đạo cách mạng ba nước Đông Dương, là ngọn đuốc soi đường, nơi quy tụ sức mạnh liên minh đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào - Campuchia.
Bước sang năm 1951, thực tiễn cuộc kháng chiến ở từng nước, cũng như yêu cầu đẩy mạnh sự phối hợp tác chiến giữa các chiến trường Việt Nam, Lào và Campuchia đòi hỏi cách mạng Đông Dương phải có đường lối, chính sách và tổ chức đảng phù hợp với đặc điểm của mỗi nước.
Theo đó, Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 2-1951) đã quyết định các vấn đề quan trọng của cách mạng Đông Dương, trong đó Đại hội khẳng định: “Vì Đông Dương là một chiến trường và cách mạng Việt Nam có nhiệm vụ phối hợp với cách mạng Miên, Lào, nên lúc này phải tích cực giúp đỡ cuộc kháng chiến Miên, Lào...”.
Chính cương của Đảng tiếp tục nhấn mạnh tình đoàn kết chiến đấu keo sơn của nhân dân Việt Nam với nhân dân Lào và Campuchia: “{1} Dân tộc Việt Nam đoàn kết chặt chẽ với hai dân tộc Miên, Lào và hết sức giúp đỡ hai dân tộc ấy cùng nhau kháng chiến chống đế quốc xâm lược, giải phóng cho tất cả các dân tộc Đông Dương. {2} Nhân dân Việt Nam đứng trên lập trường lợi ích chung mà hợp tác lâu dài với hai dân tộc Miên, Lào trong kháng chiến và sau kháng chiến”...
Từ sau tháng 2-1951 trở đi, ở mỗi nước sẽ thành lập một chính đảng mácxít riêng, chịu trách nhiệm lãnh đạo phong trào cách mạng ở mỗi nước, đó chính là sự phát huy mạnh mẽ hơn, cụ thể vai trò lãnh đạo của đảng tiền thân - Đảng Cộng sản Đông Dương đối với phong trào cách mạng ở từng nước, đánh dấu thắng lợi sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế.
Tiếp đó, nhằm tăng cường đoàn kết, liên minh giữa ba nước Đông Dương, ngày 11-3-1951, Hội nghị liên minh nhân dân ba nước Đông Dương được triệu tập, hội nghị quyết định thành lập khối Liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào dựa trên các nguyên tắc “tự nguyện, bình đẳng, tương trợ và tôn trọng độc lập, chủ quyền của mỗi nước”, nhằm mục tiêu đánh đuổi bọn xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ, làm cho mỗi nước hoàn toàn độc lập.
Tham dự Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Kháng chiến của Việt - Miên - Lào là chung của chúng ta, là bổn phận của chúng ta. Việt Nam kháng chiến có thành công thì kháng chiến Miên - Lào mới thắng lợi và kháng chiến Miên - Lào có thắng lợi thì kháng chiến Việt Nam mới hoàn toàn thắng lợi”.
Hoàng thân Souphanouvong, Trưởng đoàn đại biểu Mặt trận Issara bày tỏ cảm xúc vui mừng khi nói: “Chúng tôi vô cùng sung sướng thấy Hội nghị liên minh của ba dân tộc thu được kết quả mỹ mãn. Đó là bằng chứng chứng tỏ tinh thần đoàn kết thân mật và chặt chẽ của ba dân tộc”.
Đối với Trưởng đoàn đại biểu Mặt trận Khmer Issarak đã khẳng định vai trò của Liên minh đối với cách mạng Campuchia: “Mặt trận liên minh này cho chúng tôi nhiều ảnh hưởng tốt đẹp. Từ nay chúng tôi được gia nhập một mặt trận rộng lớn hơn, tranh đấu không cô độc mà có cả Đông Dương”.
Chia sẻ về ý nghĩa của sự thành lập khối Liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào, Trung tướng, PGS, TS Nguyễn Đức Hải, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược Quốc phòng nêu quan điểm: “Hội nghị Liên minh nhân dân ba nước Đông Dương có ý nghĩa chiến lược quan trọng, góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “chia để trị” của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Thành công của Hội nghị giúp tăng cường sức mạnh đoàn kết giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương, đặt cơ sở vững chắc cho sự liên minh và đoàn kết chiến đấu lâu dài, toàn diện giữa ba dân tộc trong những giai đoạn tiếp sau”.
Thành công của Hội nghị liên minh nhân dân ba nước Đông Dương đánh dấu một bước tiến mới của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia trong việc đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa ba nước Đông Dương ngày càng phát triển sâu rộng, gắn liền với thắng lợi về quân sự ngày càng to lớn trên các chiến trường Đông Dương.
Bốn nguyên tắc bất biến - Lá chắn vững chắc bảo vệ tình đoàn kết Đông Dương
Tuyên bố thành lập khối Liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào dựa trên 4 nguyên tắc: Tự nguyện, bình đẳng, tương trợ và tôn trọng chủ quyền của nhau. Đầu tiên là nguyên tắc “tự nguyện”, nguyên tắc này cho thấy quyền tự quyết định của mỗi quốc gia trong việc tham gia liên minh; hai là nguyên tắc “bình đẳng”, ba quốc gia đều có lợi ích, quyền lợi, quyền quyết định như nhau, lợi ích nước này không đặt trên nước kia; ba là nguyên tắc “tương trợ”, ba nước phải có trách nhiệm giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau, phối kết hợp với nhau; cuối cùng là nguyên tắc “tôn trọng chủ quyền của nhau”, khẳng định liên minh không làm mất đi bản sắc dân tộc, độc lập chủ quyền, tự chủ của mỗi dân tộc.
Việc thành lập khối Liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào dựa trên những nguyên tắc này thực sự là đòn giáng mạnh vào âm mưu, thủ đoạn tuyên truyền nham hiểm của kẻ thù nhằm chia rẽ, phá hoại tình đoàn kết chiến đấu giữa ba dân tộc Việt Nam, Lào và Campuchia với luận điệu rằng “Việt Nam âm mưu thành lập liên bang Đông Dương do Việt Nam đứng đầu”...
Phản bác những luận điệu này, Trung tướng, PGS, TS Nguyễn Đức Hải cho rằng: “Đây là giọng điệu thiếu hiểu biết, cố tình bóp méo giá trị lịch sử và truyền thống đoàn kết, gắn bó keo sơn giữa ba dân tộc; là sự mơ hồ, lạc hậu trong xu thế phát triển của tình hình thế giới và khu vực. Mặc dù mỗi nước còn có những điều kiện phát triển ở những cấp độ khác nhau, nhưng tình cảm, sự trân trọng và tình đoàn kết hữu nghị láng giếng với Lào, Campuchia, luôn được Việt Nam nâng niu, giữ gìn, trân trọng, tương hỗ lẫn nhau trên tinh thần tôn trọng độc lập, chủ quyền, lãnh thổ vì lợi ích quốc gia của mỗi nước”.
Lập luận về vấn đề trên, Đại tá, PGS, TS Nguyễn Văn Sáu, Phó viện trưởng Viện Chiến lược và Lịch sử Quốc phòng Việt Nam, nêu quan điểm: “Về cái gọi là “Liên bang Đông Dương”, thực tiễn lịch sử cũng đã chứng minh đây không phải là ý muốn chủ quan của Đảng Cộng sản Đông Dương mà chính là sản phẩm áp đặt của chế độ thống trị thực dân Pháp “quàng lên” cổ nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia trong gần 100 năm đô hộ. Để tự giải phóng khỏi ách thống trị thực dân, nhân dân ba nước đã đoàn kết với nhau trong cuộc đấu tranh chung, đưa đến việc ra đời Đảng Cộng sản Đông Dương trong bối cảnh cuộc đấu tranh giữa ta và địch những năm 30 thế kỷ XX”.
Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược ba nước lần thứ hai, chúng đã lập lại Liên bang Đông Dương thuộc Pháp. Vì thất bại nặng nề trong âm mưu xâm lược, nên từ năm 1950, Pháp buộc phải xóa bỏ Đông Dương thuộc Pháp và bày trò trao quyền tự trị cho ba nhà nước liên kết với Pháp.
Tại Đại hội lần thứ II (2-1951), Đảng Cộng sản Đông Dương đã đề ra chủ trương thành lập ở mỗi nước một chính đảng Mác - Lênin chịu trách nhiệm lãnh đạo phong trào cách mạng của nước mình. Chủ trương này thể hiện sự trưởng thành trong nhận thức chính trị của Đảng “về quyền dân tộc tự quyết” của các dân tộc, phù hợp với đặc điểm tình hình xã hội ở từng nước.
Tiếp đó, Hội nghị Liên minh nhân dân ba nước Đông Dương (11-3-1951) đánh dấu sự phối hợp và liên minh giữa nhân dân ba nước Đông Dương ngày càng được mở rộng, là nhân tố quan trọng góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu chống kẻ thù chung, vì độc lập dân tộc, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước.
“Do vậy, việc chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế không ngớt rêu rao luận điệu “Việt Nam muốn lập Liên bang Đông Dương do Việt Nam đứng đầu...” chính là âm mưu thâm độc, nhằm chia rẽ và suy yếu cách mạng Đông Dương để chúng dễ bề can thiệp và thôn tính”, Đại tá, PGS, TS Nguyễn Văn Sáu khẳng định.
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Phép thử liên minh chiến đấu trong kháng chiến chống Pháp
Theo Đại tá, PGS, TS Nguyễn Văn Sáu, Chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) là đỉnh cao, là mốc son chói lọi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Sau “56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn…”, quân và dân ta đã làm nên kỳ tích Điện Biên Phủ “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”. Một trong những nhân tố quan trọng góp phần vào thắng lợi ấy chính là sự đoàn kết, phối hợp chiến đấu chặt chẽ giữa ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia.
Trước âm mưu mới của thực dân Pháp với kế hoạch Nava, Bộ Chính trị đã thông qua phương án tác chiến Đông Xuân 1953-1954, trong đó xác định phải phối hợp chặt chẽ giữa chiến trường chính Điện Biên Phủ và chiến trường phối hợp “chia lửa”. Việt Nam tập trung chủ lực mở chiến dịch Điện Biên Phủ, trong khi đó quân và dân Lào, Campuchia cùng phối hợp với bộ đội tình nguyện Việt Nam mở các chiến dịch ở Trung - Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia. Những chiến dịch này đã giải phóng nhiều vùng đất rộng lớn, chia cắt chiến lược của địch, làm suy yếu lực lượng cơ động, hỗ trợ đắc lực cho chiến trường chính Điện Biên Phủ. Tại Mặt trận Thượng Lào, bộ đội chủ lực Việt Nam phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Lào tiến công vào phòng tuyến sông Nậm U, buộc lực lượng địch ở đây tháo chạy, giải phóng lưu vực sông Nậm U.
Hoạt động quân sự phối hợp với quân và dân hai nước Lào, Campuchia trong Đông Xuân 1953-1954 đã góp phần làm giảm khối chủ lực tập trung của địch trên chiến trường chính Bắc Bộ; chặt đứt các con đường chiến lược của địch chi viện cho Điện Biên Phủ, góp phần cô lập chiến trường này, tạo điều kiện thuận lợi để quân dân Việt Nam giành thế chủ động tiến công địch.
Ngày 7-5-1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp. Thắng lợi này không chỉ là niềm tự hào của nhân dân Việt Nam mà còn là biểu tượng cho sức mạnh của liên minh đoàn kết chiến đấu ba nước Đông Dương, góp phần đặt nền tảng cho thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới.
Nói về thắng lợi của tình đoàn kết liên minh chiến đấu toàn diện giữa quân và dân ba nước Đông Dương trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, Trung tướng, PGS, TS Nguyễn Đức Hải cho rằng: “Chiến thắng Điện Biên Phủ và chiến thắng toàn dân, toàn diện do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, là thắng lợi của chiến lược, nghệ thuật chiến dịch, là sức mạnh tổng hợp của toàn chiến trường Đông Dương. Trong đó, mối quan hệ đoàn kết chiến đấu phối hợp nhịp nhàng trong mọi hoạt động tác chiến giữa ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia là yếu tố quyết định chiến thắng Điện Biên Phủ”.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp bày tỏ: “Sức mạnh thần kỳ của đoàn kết toàn dân chiến đấu, của liên minh chiến đấu đặc biệt Việt Nam - Lào - Campuchia đã làm nên chiến công hiển hách trong mùa xuân lịch sử năm 1954”.
Với quan điểm “Đông Dương là một chiến trường”, liên minh chiến đấu Việt Nam, Lào, Campuchia ngày càng phát triển mạnh mẽ và bền vững. Chiến thắng Điện Biên Phủ như một hình mẫu tiêu biểu của tinh thần đoàn kết, giúp đỡ và phối hợp chiến đấu giữa quân và dân ba nước, đập tan ý chí xâm lược của thực dân Pháp, chấm dứt ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân cũ của Pháp ở Đông Dương. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ba nước Đông Dương làm mạnh mẽ thêm khối đoàn kết của ba dân tộc, tạo điều kiện tiến lên trong cuộc trường chinh mới.
- Nội dung: Nhóm Phóng viên Báo Quân đội nhân dân
- Ảnh: Tư liệu
- Kỹ thuật, đồ họa: TÔ NGỌC