
Hồ Chí Minh – Nhà báo vĩ đại, người sáng lập nền báo chí cách mạng Việt Nam
Cách đây hơn một thế kỷ, giữa thủ đô Paris hoa lệ, một thanh niên Việt Nam tên là Nguyễn Tất Thành, với vốn tiếng Pháp còn hạn chế, đã bắt đầu sự nghiệp báo chí bằng một bài viết “nhỏ như bao diêm” đăng trên tờ La Vie Ouvrière – tờ báo của giới thợ thuyền Pháp. Ít ai ngờ rằng, bài viết khiêm tốn ấy đã mở đầu cho một hành trình làm báo kéo dài suốt 52 năm – hành trình mà người thanh niên ấy sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập ra nền báo chí cách mạng Việt Nam.
26 tuổi học viết báo để tuyên truyền cách mạng, tố cáo tội ác thực dân
Trong cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, tác giả Trần Dân Tiên cho biết: Bác hiểu ngay rằng mình phải giao thiệp bằng tiếng Pháp để làm ăn sinh sống, để học tập và hoạt động cách mạng. Người gửi cả những truyền đơn về Đông Dương. Những hoạt động đó có tác dụng nhất định nhưng không cơ bản và lâu dài. Người bắt đầu suy nghĩ tới hoạt động báo chí. Nhưng hoạt động như thế nào khi “ông Nguyễn không đủ tiếng Pháp để viết báo Pháp”.
Như vậy, động cơ làm báo đầu tiên của Hồ Chí Minh là để tuyên truyền cách mạng, tố cáo tội ác thực dân Pháp.
Cuốn sách “117 chuyện kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Ban Tuyên giáo Trung ương phát hành năm 2007 cho biết bài báo đầu tiên Bác Hồ viết in năm 1917. Cuốn sách cho biết: “Nhưng bấy giờ, Bác chưa giỏi tiếng Pháp. Muốn viết gì, Bác phải nhờ luật sư Phan Văn Trường. Ông là một nhà trí thức yêu nước, đậu tiến sĩ luật khoa ở Pa-ri, nhưng ông không muốn ký tên ở dưới và không viết hết điều mà Bác muốn nói, Bác rất khó chịu vì mình kém tiếng Pháp, Bác nghĩ: muốn tuyên truyền cho nước ta, nhưng không viết được chữ Pháp. Làm thế nào bây giờ? Nhất định phải học viết cho kỳ được”. Bác làm quen với ông Gaston Monmousseau, Thư ký Tổng Liên đoàn Lao động Pháp, Chủ bút báo La Vie Ouvrière (“Đời sống thợ thuyền”). Bác ngỏ ý muốn viết bài nhưng ngại vì tiếng Pháp còn kém. Chủ bút bảo: “Điều đó không ngại, có thế nào anh viết thế ấy. Tôi sẽ chữa bài cho anh trước khi đưa in. Anh không cần viết dài; năm sáu dòng cũng được”. Monmousseau hướng dẫn Bác viết cho mục “tin tức vắn” trên báo của ông.
Viết xong bài, Bác chép thành hai bản, một bản giữ lại. Lần sung sướng nhất trong đời viết văn, làm báo của Bác là bài đầu tiên được đăng trên tờ “Đời sống thợ thuyền”. Năm ấy là năm 1917, Người mới 26 tuổi. Người đã so lại xem đúng sai chỗ nào, tòa báo sửa cho như thế nào. Sau này, khi thấy đã bớt sai, ông chủ bút lại bảo: “Bây giờ anh viết dài một tí, viết độ bảy tám dòng”. Rồi cứ thế, Bác viết được cả một cột báo, có khi dài hơn. Lúc ấy, người chủ bút (là bạn thân của Bác) lại bảo viết ngắn lại. Rút ngắn cũng khó như kéo dài. Nhờ kiên trì rèn luyện nên Bác đã thành công.
Một số tài liệu cho biết, năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gặp Jean Longuet, cháu ngoại Các Mác, chủ bút báo Dân chúng (Le populaire), cơ quan của Đảng Xã hội Pháp. Sau lần gặp gỡ đầu tiên, hai người trở nên thân thiết. Jean Longuet luôn động viên Nguyễn Ái Quốc viết về Việt Nam. Ông đã giúp đỡ Nguyễn Ái Quốc viết và cho đăng một số bài báo tố cáo tội ác của thực dân Pháp. Sau này Bác Hồ kể lại: Jean Longuet là người đầu tiên Bác gọi là “đồng chí”.
Cũng theo Trần Dân Tiên, Người đã vượt qua khó khăn bằng cách vừa làm vừa học, tự học và học những nhà báo người Pháp có kinh nghiệm. Bằng sự nỗ lực của bản thân trên cơ sở xác định rõ mục đích và cách viết, chỉ một thời gian ngắn, Nguyễn Ái Quốc đã vào làng báo. Một dấu mốc quan trọng trong quá trình viết báo phục vụ cách mạng của Người là bài viết với tiêu đề “Yêu sách của nhân dân An Nam” được tờ L’Humanité (Nhân đạo - cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Pháp) đăng ngày 18-6-1919.
Sau đó, Người đã có bài trên Báo Nhân đạo và tiếp theo Người viết nhiều bài cho Báo Dân chúng, Đời sống công nhân...
Như vậy, từ vai trò cộng tác viên viết mục “tin vắn”, kiên trì học tiếng Pháp, học cách viết, chỉ sau một thời gian ngắn, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành một cây bút sắc sảo, mạnh mẽ trên báo chí Pháp.
Làm báo ở mọi khâu, mọi việc
Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà cách mạng thành lập Hội Liên hiệp Thuộc địa và sáng lập tờ báo Le Paria (Người cùng khổ), số đầu tiên xuất bản ngày 1-4-1922. Tờ báo là một công cụ đấu tranh chính trị, là tiếng nói của các dân tộc bị áp bức ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latin.
Nguyễn Ái Quốc làm báo ở mọi khâu, mọi việc, vừa là người khởi xướng, chủ bút, biên tập viên, người phát hành, bán báo, vừa là cây bút chính. Có số báo, Người viết tới ba bài và một bức vẽ. Bác kể lại: “Các đồng chí người thuộc địa Á Phi viết bài quyên tiền, còn bao nhiêu công việc mình đều bao hết”. Báo ra cả thẩy được 38 số. Khổ lớn, tên báo bằng chữ Pháp đặt ở giữa, chữ Ả Rập bên trái và chữ Hán bên phải, do Bác viết. Báo này không có ban biên tập làm việc thường xuyên, vì ai nấy phải làm việc, sinh sống hoặc bận các công việc sửa chữa bài vở và bán báo. Một luật sư trong Ban biên tập làm cùng Bác đã nhận xét rằng: “Anh Nguyễn Ái Quốc đã đóng góp rất nhiều cho tờ báo, anh viết khỏe, có số viết tới hai, ba bài”, “lời văn anh sắc bén, tư tưởng anh rõ ràng và mạnh mẽ”, “xem và đọc những bài và tranh đó người ta thấy rõ tác giả có một tinh thần tiến công rất chủ động và rất thông minh”.
Tôn chỉ, mục đích của báo Người cùng khổ là chiến đấu để “giải phóng con người”. Le Paria số 1 ra ngày 1-4-1922; số 38 (cuối cùng) ra tháng 4-1926. Nguyễn Ái Quốc trực tiếp phụ trách từ số 1 (4-1922) đến số 15 (6-1923); sau đó, Người rời Pháp đi Liên Xô, nhưng vẫn gửi bài về đăng báo. Tổng cộng, Nguyễn Ái Quốc có trên 30 bài viết và tranh vẽ trên báo Le Paria.
Nhà báo Nguyễn Ái Quốc ngày đó là một công nhân nghèo nhưng luôn bỏ tiền túi để góp sức nuôi tờ báo Người cùng khổ hoạt động. Theo nghiên cứu của Ian Birchall, một nhà sử học người Anh: Số lượng in ban đầu của nó dường như là 1.000, chỉ tăng lên 3.000. Phần lớn trong số này đã đến các thuộc địa; trong số 2.000 bản chỉ có 500 bản ở Pháp, trong khi 500 bản đến Madagascar, 400 bản đến Dahomey, 200 bản đến Maghreb, 100 bản đến Châu Đại Dương, và 200 bản ở Đông Dương. 99 năm trước, khi làm báo Người cùng khổ, Bác đã nỗ lực và năng động tới mức trang 4 của báo đã có đăng quảng cáo thuốc men, đăng giờ tàu đến và đi, quảng cáo cho các dụng cụ cắt cỏ... Bác cũng dùng các hình thức khuyến mại, cho bạn đọc góp cổ phần qua hợp tác xã để phát triển tài chính cho báo. Tài liệu của mật thám Pháp cho biết, có lúc Le Paria phát hành đến 2.000 bản, một nửa được gửi cho các nước thuộc địa.
Ngoài tờ “Người cùng khổ” ra, Bác còn viết cho nhiều tờ báo bằng tiếng Pháp nữa. Theo thống kê chưa đầy đủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp sáng lập và tham gia sáng lập hàng chục tờ báo. Ngoài “Người Cùng Khổ” (1922); Việt Nam Hồn (1923), “Quốc tế Nông dân” (1924); còn có nhiều tờ báo như:
Ngày 21-6-1925, Bác đã sáng lập báo Thanh niên, khai sinh nền báo chí cách mạng Việt Nam và đã trực tiếp chỉ đạo, biên tập và viết nhiều bài chính luận cho tờ báo này. Bác cũng sáng lập Báo Công Nông (12-1926), báo Lính Kách Mệnh (2-1927). Năm 1930, Bác sáng lập tạp chí Đỏ, xuất bản ngày 5-8-1930, đồng thời là người chỉ đạo và cộng tác mật thiết của các tờ báo Đảng như Búa Liềm, Tranh Đấu, Tiếng nói của chúng ta... Năm 1941, Bác sáng lập tờ Việt Nam Độc Lập. Năm 1942, Bác chỉ đạo sáng lập báo Cứu Quốc. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (tháng 2-1951), Bác chỉ đạo thành lập báo Nhân dân.
Chính nhờ làm báo, viết báo và đọc báo, Nguyễn Ái Quốc đọc được tác phẩm của Lênin “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” đăng trên báo L’Humanité số ra ngày 16 và 17-7-1920.
Người thầy vĩ đại của báo chí cách mạng Việt Nam
Như vậy, tính từ bài báo đầu tiên “nhỏ như bao diêm” đăng trên tờ báo Đời sống thợ thuyền năm 1917 ở Pháp đến bài báo sau cùng mà Hồ Chí Minh viết là bài “Thư trả lời Tổng thống Mỹ R.M.Nich-xơn” (Báo Nhân Dân, ngày 25-8-1969) (có tài liệu ghi là bài "Nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu niên nhi đồng", ký tên T.L, đăng trên báo Nhân Dân ngày 1-6-1969), Hồ Chí Minh đã có một sự nghiệp làm báo kéo dài 52 năm.
Người đã để lại một di sản báo chí lớn với hơn 2.000 bài báo các loại, gần 300 bài thơ, gần 500 trang truyện và ký… thể hiện qua hơn 170 bút danh, viết bằng nhiều thứ tiếng Việt, Anh, Pháp, Nga, Hán…
Theo nghiên cứu của GS, TS Tạ Ngọc Tấn, Phó chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản to lớn các trước tác liên quan đến báo chí, trong đó có hai bộ phận: Các tác phẩm báo chí gồm nhiều thể loại khác nhau từ tin tức, chính luận, tản văn đến tiểu phẩm và các bài viết, bài nói chuyện đề cập đến vấn đề báo chí và người làm báo.... Trong tư tưởng của Người, đối với báo chí, chính trị phải làm chủ. Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng.
Sinh thời, khi trả lời phỏng vấn nhà báo Liên Xô Ruf Bersatxki, Người không nhận mình là nhà báo mà tâm sự: “Tôi là cây bút tiểu phẩm, nhà chính luận. Gọi là nhà tuyên truyền tôi cũng không tranh cãi, nhà cách mạng chuyên nghiệp là đúng nhất”. Thực tế cho chúng ta thấy, nhà cách mạng, nhà báo Hồ Chí Minh là một.
Trong Thư gửi anh em trí thức Nam Bộ, năm 1947, Người khẳng định: “Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà” .
Năm 1949, trong Thư gửi lớp học viết báo Huỳnh Thúc Kháng, Bác Hồ căn dặn: Nhiệm vụ của tờ báo là tuyên truyền, cổ động, huấn luyện, giáo dục và tổ chức dân chúng để đưa dân chúng đến mục đích chung.
Tại Đại hội lần thứ II Hội Nhà báo Việt Nam ngày 16-4-1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Báo chí là người tuyên truyền, người cổ động, người tổ chức chung, người lãnh đạo chung”.
Tại Đại hội Hội Nhà báo lần thứ III (ngày 8-9-1962), Người khẳng định: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sỹ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”.
Bác căn dặn cán bộ của Đảng phải thường xuyên đọc báo. Trên Báo Nhân Dân số 197, ngày 24-6-1959, Bác viết bài “Cần phải xem báo Đảng”, vì theo Người: “Tờ báo Đảng là như những lớp huấn luyện giản đơn, thiết thực và rộng khắp. Nó dạy bảo chúng ta những điều cần biết làm về tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo và công tác”.
Trong bài Bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ ba của Hội Nhà báo Việt Nam, ngày 8/9/1962, Người nêu lên những câu hỏi cần câu trả lời liên quan chặt chẽ với nhau:
“Mỗi khi viết một bài báo, thì tự đặt câu hỏi:
Viết cho ai xem?
Viết để làm gì?
Viết thế nào cho phổ thông dễ hiểu, ngắn gọn dễ đọc?
Khi viết xong, thì nhờ anh em xem và sửa giùm”
Chủ đề, đối tượng, mục đích quyết định cách thể hiện. Cách thể hiện tốt làm cho nội dung nói và viết đúng với chủ đề, đúng đối tượng và đạt được mục đích của việc nói và viết. Trả lời đúng và đủ những câu hỏi đó, người làm báo đã thể hiện rõ nhân cách, đạo đức báo chí của mình. (Hồ Chí Minh: Toàn tập).
Nền báo chí nước ta đang đứng trước thời cơ, vận hội phát triển mạnh mẽ, trách nhiệm nặng nề đối với chế độ, nhân dân cùng những thử thách, khó khăn, phức tạp. Trong kỷ nguyên thông tin hiện đại, lời dạy của Bác về báo chí vẫn nguyên giá trị: “Làm báo là phục vụ nhân dân, là chiến đấu bằng ngòi bút, là hành động vì sự thật, vì cách mạng”. Trong vai trò đó, báo chí có sức mạnh đặc biệt và sẽ ngày càng quan trọng trước yêu cầu phát triển. Người làm báo cần nhận thức rõ nhiệm vụ, không ngừng học hỏi, rèn luyện phẩm chất, năng lực để thích ứng với sự thay đổi, phát triển nhanh chóng của xã hội.
*) Tài liệu tham khảo: "Chứng nhân lịch sử" - GS, TS Tạ Ngọc Tấn, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.