Tự chủ vũ khí giữ nước - Khát vọng Việt Nam: Bài 1: Từ nỏ thần đến súng thần công

LTS: Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật trường tồn và phát triển của dân tộc ta. Lịch sử hàng nghìn năm qua, các thế hệ người Việt đã không ngừng sáng chế ra các loại vũ khí để chiến đấu bảo vệ đất nước, đánh bại mọi kẻ thù xâm lược. Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: "Tinh thần sáng tạo và tài năng về chế tạo vũ khí đánh giặc cứu nước đã trở thành một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam". Nhìn lại quá khứ, thấy rõ thực trạng, tìm ra giải pháp để tự chủ vũ khí giữ nước trong kỷ nguyên mới là vấn đề rất cần thiết hiện nay.

Với vị trí địa chính trị đặc biệt, nằm ở trung tâm Đông Nam Á, án ngữ Biển Đông với ba mặt giáp biển, là nơi chuyển tiếp giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, từ xa xưa Việt Nam đã trở thành tâm điểm “nhòm ngó” của các thế lực bành trướng, xâm lược. Để giữ vững độc lập, chủ quyền, từ thời Văn Lang-Âu Lạc, người Việt đã sớm tự chủ chế tạo và sử dụng các loại vũ khí để đánh giặc giữ nước.

Nỏ Liên Châu là thứ vũ khí cực kỳ lợi hại, do vị tướng quân tài ba Cao Lỗ chế tạo. Nỏ Liên Châu từng được thần thoại hóa thành “nỏ thần”. Theo truyền thuyết, thời Thục Phán-An Dương Vương, nước Âu Lạc có nỏ thần có thể bắn ra nhiều mũi tên, xuyên qua chục người, làm quân địch khiếp sợ. Vì thế mà quân xâm lược phương Bắc thường xuyên phải nhận thất bại.

Nhiều cuốn chính sử của Việt Nam và Trung Hoa đều ghi lại việc Triệu Đà mang quân đánh Âu Lạc ở thế kỷ 2 trước Công nguyên và bị đại bại nhanh chóng, phải xin cầu hòa và gửi Thái tử Trọng Thủy sang hàng Âu Lạc làm con tin. Sách sử của Trung Hoa từng mô tả: “Bằng một loạt bắn, nỏ Liên Châu có thể hạ sát 300 tên địch”. Sách Việt sử lược của ta cũng chép: “An Dương Vương huấn luyện được một vạn tinh binh được trang bị nỏ thần có khả năng mỗi phát bắn phóng ra mười mũi tên”. Còn sách Lĩnh Nam chích quái chép rằng: Cứ đem nỏ ra chĩa vào quân giặc là chúng không dám đến gần.

Ảnh trái: Lẫy nỏ được khai quật từ thành Cổ Loa. Ảnh phải: Mũi tên đồng khai quật ở thành Cổ Loa. Ảnh: baotanglichsu.vn

Nỏ Liên Châu là câu chuyện mang đậm màu sắc truyền thuyết. Tuy nhiên năm 1959, các nhà khảo cổ đã tìm được ở thành Cổ Loa (xã Đông Anh, Hà Nội) với số lượng hơn một vạn mũi tên ba cạnh. Đặc biệt sau này, các nhà khảo cổ học còn tìm thấy lò đúc, khuôn đúc loại mũi tên này. Thượng tướng, Viện sĩ, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Huy Hiệu, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng cho rằng, qua nghiên cứu, nỏ Liên Châu có thể bắn được cả vạn mũi tên đồng chính là nhờ khả năng lắp nhiều tên trong ống, không chỉ nhiều tên cạnh nhau mà nhiều hàng tên trước sau. Đây là minh chứng tài năng quân sự tuyệt vời của người dân nước Việt cách đây mấy nghìn năm.

Bắn biểu diễn mô hình phục dựng "nỏ thần".

Do địa hình của người Việt có biển rộng, nhiều sông, đầm, hồ, nên đã sớm biết chế tạo các loại thuyền, bè để tác chiến chống quân xâm lược. Các hình khắc trên trống đồng Ngọc Lũ và Hoàng Hạ cho thấy thuyền chiến của người Việt được trang bị các loại vũ khí, như: Giáo, lao, rìu, cung tên... Đặc biệt, các trận thủy chiến trên sông, biển của đội quân do Ngô Quyền chỉ huy đánh quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng (năm 938); danh tướng Lý Thường Kiệt chỉ huy đánh xâm lược Tống (năm 1077) trên sông Như Nguyệt, cho đến trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng dưới thời nhà Trần (năm 1288)... đều sử dụng các loại chông ngầm, cọc ngầm bịt sắt. Đây là vũ khí tự tạo rất đặc biệt cùng với các loại vũ khí được trang bị cho quân lính trên các chiến thuyền đã đánh bại các lực lượng hùng mạnh của kẻ thù.

Từ trái sang phải: Chiến thắng Bạch Đằng năm 938. * Tượng Ngô Quyền tại quần thể di tích Từ Lương Xâm, TP Hải Phòng. * Bản đồ trận chiến trên sông Bạch Đằng năm 938. Ảnh: baotanglichsu.vn

Đặc biệt, từ cuối thế kỷ 14, người Việt đã chế tạo, sử dụng có hiệu quả các loại pháo và các thứ vũ khí sử dụng thuốc súng. Qua nghiên cứu, Đại tá Lê Thế Mẫu, nguyên cán bộ Viện Chiến lược và Lịch sử quốc phòng Việt Nam phân tích, do yêu cầu đánh giặc giữ nước ngày càng cao và điều kiện kinh tế, kỹ thuật cho phép cũng như công nghệ chế tạo vũ khí, trang bị đã có bước phát triển, nên cuối thời Trần, đầu thời Hồ chúng ta đã chế tạo một số loại súng, pháo. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu án, Vân đài loại ngữ, Việt sử thông giám cương mục, năm 1382, tại cửa biển Thần Phù (Thanh Hóa), trong trận thủy chiến với quân xâm lược Chiêm Thành trên sông Hải Triều (sông Luộc) vào tháng Giêng năm 1390, đô tướng nhà Trần là Trần Khát Chân chỉ huy chiến dịch sử dụng hỏa pháo bắn tiêu diệt thuyền chiến của vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga, khiến quân giặc tan rã.

Thần cơ sang pháo là phát minh lớn về vũ khí của thời nhà Hồ, cũng như của toàn lịch sử dân tộc.

Cũng theo Đại tá Lê Thế Mẫu, giữa năm 1405, Hồ Hán Thương huy động những người giỏi công nghệ khắp cả nước để chế tạo các loại pháo lớn, nhỏ, các phương tiện hỏa công và nhiều loại vũ khí sử dụng thuốc súng. Trong đó có “thần cơ sang pháo” (thần công)-một kiểu đại bác lớn đầu tiên ở nước ta có sức công phá rất lớn. Trong sách “Vân Đài loại ngữ”, nhà bác học Lê Quý Đôn viết: “Thần cơ sang pháo” được đúc bằng sắt hoặc đồng, có nhiều cỡ, lớn thì kéo xe, nhỏ thì dùng giá đỡ hay vác vai…”.

“Thần cơ sang pháo” đã gây thương vong rất nhiều cho giặc Minh. Khi quân Minh chiếm được những khẩu pháo này, họ rất kinh ngạc và mang về phương Bắc nghiên cứu, sử dụng. Trong sách Minh sử của Trung Hoa chép: Trong cuộc bình Giao Chỉ, nhà Minh đã bắt được súng thần, pháo thần của Giao Chỉ, được coi là vũ khí nhất thiên hạ… Súng “thần công” có được gần đây dùng sắt làm tên, bắn đi bằng lửa, đi xa ngoài 100 bước, nhanh chóng kỳ diệu như thần, nghe thấy tiếng là lửa đã đến...

Năm 1858, thực dân Pháp đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), mở đầu cho quá trình xâm lược Việt Nam. Với nhiều loại vũ khí hiện đại, gồm các loại vũ khí nổ và các phương tiện quân sự khác nhanh chóng tấn công và chiếm đóng các vùng đất của Việt Nam. Trước sự bành trướng của thực dân, năm 1885, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, một làn sóng yêu nước chống thực dân Pháp dâng lên ở cả nước. Trong đó có phong trào khởi nghĩa ở Hương Sơn, Hà Tĩnh do Cao Thắng cùng Cao Nữu, Cao Đạt, Nguyễn Niên chỉ huy…

Cao Thắng (Cao Tất Thắng) sinh năm 1864, xuất thân trong một gia đình nông dân, quê ở xã Sơn Lễ (nay là xã Sơn Tiến, Hà Tĩnh). Sau khi xây dựng nghĩa quân, nhưng thiếu vũ khí, trang bị, Cao Thắng ngày đêm suy nghĩ cách chế súng đánh giặc. Lúc đầu, ông nhờ thợ rèn chế được 200 khẩu súng trường do ông thiết kế. Súng nhồi thuốc ở đầu nòng, dùng kim hỏa đánh lửa đốt thuốc phóng ở đạn. Tuy nhiên, súng do Cao Thắng thiết kế còn có những hạn chế, không phát huy được hỏa lực.

Ông Cao Thắng chỉ huy các nghĩa quân rèn đúc súng theo mẫu súng 1874 của Pháp (tranh minh họa)

Trong một trận phục kích, nghĩa quân của Cao Thắng thu được 17 khẩu súng trường, hơn 600 viên đạn của quân Pháp. Ông cho nghĩa quân tháo các bộ phận của khẩu súng, rồi nghiên cứu, chế tạo mẫu súng tương tự kiểu súng năm 1874 của quân Pháp. Các xưởng ngày đêm đúc rèn, chế tạo từng bộ phận của súng. 350 khẩu súng cùng với hàng vạn viên đạn đồng được sản xuất, tiếp thêm sức mạnh và động lực cho nghĩa quân chiến đấu chống quân xâm lược. Mặc dù việc chế tạo súng theo phương pháp thủ công, chủ yếu bằng lò rèn địa phương, nhưng nghĩa quân đã chế tạo được số lượng khá lớn. Theo ước lượng, tổng số súng do nghĩa quân Cao Thắng tự sản xuất và sử dụng cho đến 1895 là khoảng 1.200 đến 1.300 khẩu. Do trình độ khoa công nghệ còn hạn chế, vì vậy những khẩu súng do nghĩa quân chế tạo không có rãnh xoắn và lò xo hơi yếu, nên bắn kém chính xác. Tuy nhiên, đó là minh chứng cho sự sáng tạo, tự chủ trong nghiên cứu, sản xuất vũ khí để đánh đuổi ngoại xâm.

Trong cuốn sách với tựa đề: L'Empire d'Annam (Đế quốc An Nam), Gosselin đã viết: "Các khẩu súng kiểu 1874 này được sản xuất bí mật tại những địa điểm mà chúng ta không phát hiện ra được và với một khối lượng rất nhiều. Tôi đã mang về Pháp vài khẩu súng này, chúng giống về tất cả mọi phương diện so với những khẩu súng do các công binh xưởng của chúng ta sản xuất và đã làm cho các sĩ quan pháo binh mà tôi đưa cho họ xem phải hết sức ngạc nhiên. Chúng chỉ khác với những khẩu súng của chúng ta về hai điểm mà thôi: Lò xo xoáy ốc được tôi chưa đủ và nòng súng không có xẻ rãnh; hậu quả của điều này là đạn đi không xa. Tuy nhiên, những khẩu súng này đã bắn chết rất nhiều binh lính và sĩ quan người Âu và binh lính người bản xứ".

Ảnh trái: Chi tiết súng do ông Cao Thắng chế tạo theo mẫu súng 1874 của Pháp. Ảnh phải: Súng trường do ông Cao Thắng chế tạo theo mẫu súng 1874 của Pháp

Như vậy, có thể thấy, hơn 20 thế kỷ thời kỳ cổ-trung đại (từ thế kỷ thứ III trước Công nguyên đến thế kỷ thứ XVIII) dân tộc Việt Nam phải tiến hành hơn 20 cuộc đấu tranh vệ quốc bằng chính vũ khí do nhân dân ta chế tạo chống lại những kẻ thù phong kiến phương Bắc hung bạo, tàn ác và giành thắng lợi. Những vũ khí tiêu biểu có thể phân làm 2 loại. Vũ khí dùng sức mạnh cơ học để sát thương mà cha ông ta đã thực hiện, như: Giáo, mũi trường, câu liêm, kiếm, lao, móc câu, mũi tên, mũi chông, củ ấu, chông 3 cạnh… Ngoài ra còn có các loại vũ khí làm từ tre, nứa như cung tên, nỏ, bẫy... Từ thế kỷ XIII đến đầu thế kỷ XIX, Việt Nam đã sản xuất nhiều loại hỏa khí với nhiều tên gọi khác nhau. Cha ông ta đã từng sản xuất vũ khí sử dụng uy lực của thuốc nổ (thuốc súng) để sát thương, như: Súng lệnh, súng thần công, đạn súng lệnh, đạn súng thần công.

Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tự hào và khẳng định rằng, tự chế tạo ra vũ khí để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược là một kỳ tích của dân tộc Việt Nam ta; là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên những chiến công hiến hách và trở thành một truyền thống quý báu của nhân dân ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước.

(Còn nữa)

Nhiều vũ khí, khí tài do Việt Nam nghiên cứu, chế tạo được giới thiệu tại Triển lãm thành tựu đất nước “80 năm hành trình Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”

  • Nội dung: Nhóm PV Báo QĐND
  • Ảnh: baotanglichsu.vn, CTV
  • Kỹ thuật, đồ họa: TÔ NGỌC