Giữ hồn thổ cẩm của dân tộc Ba Na giữa lòng Thủ đô

Giữa không gian yên bình của Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội), tiếng khung cửi lách cách vang lên mỗi ngày như nhịp thở của truyền thống. Ở nơi tưởng chừng chỉ có du khách dạo bước ngắm cảnh, vẫn còn những người âm thầm miệt mài bên khung dệt — dệt nên sắc màu văn hóa Ba Na, dệt nên ký ức của núi rừng Tây Nguyên giữa lòng miền Bắc.

Ở một góc nhỏ ngoài trời, những người phụ nữ Ba Na - đang sinh sống tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam hằng ngày vẫn kiên nhẫn ngồi bên khung cửi. Họ vừa trò chuyện, vừa kiên nhẫn se từng sợi chỉ, dệt nên những tấm vải thổ cẩm rực rỡ mang đậm hồn cốt Tây Nguyên giữa lòng Thủ đô. Từng sợi chỉ được se đều, từng đường dệt được lồng cẩn thận để tạo nên những hoa văn đặc trưng: Hình tam giác, hình thoi, đường zíc zắc – tượng trưng cho núi rừng, mùa màng và khát vọng sinh sôi.

Đến với không gian của người Ba Na, du khách có thể trò chuyện, quan sát, hoặc tự tay thử dệt những đường chỉ đầu tiên. Không chỉ là một trải nghiệm văn hóa, đó còn là cách để con người “chạm” vào di sản sống – nơi văn hóa không nằm trong sách, mà hiện hữu trong từng nhịp tay, từng ánh mắt của những người giữ nghề.

Từ bao đời nay, người Ba Na đã gửi gắm câu chuyện về núi rừng, con người và niềm tin của mình vào từng tấm thổ cẩm. Với họ, vải dệt không chỉ là trang phục, mà còn là ngôn ngữ của tâm hồn, là ký ức về cội nguồn và biểu tượng của sự gắn kết giữa con người với thiên nhiên. Các họa tiết thổ cẩm Ba Na tuy giản dị nhưng ẩn chứa triết lý sâu xa. Những đường kẻ sọc trên áo nam thể hiện sức mạnh và sự kiên cường; trong khi ở áo nữ, các đường nét lại mềm mại, duyên dáng, tôn lên vẻ đẹp của người phụ nữ. Họa tiết hoa lá, mặt trời hay núi rừng đều mang ý nghĩa ca ngợi sự sống, thể hiện mối liên kết hài hòa giữa con người và đất trời.

Trên nền vải dày ấm, ba màu chủ đạo đỏ – vàng – đen hòa quyện như bản hòa ca của đại ngàn:

* Đỏ tượng trưng cho sức mạnh và tình yêu,

* Vàng biểu trưng cho ánh sáng, khát vọng và niềm tin,

* Đen là màu của núi rừng – thiêng liêng và bền bỉ, như linh hồn của đất mẹ.

Gam màu chàm/đen sẫm chủ đạo (biểu tượng cho núi rừng, đất đai) tương phản với các đường chỉ và hoa văn trang trí màu đỏ (biểu tượng cho sự sống, lửa) và trắng (biểu tượng cho ánh sáng, tinh khiết).

Theo truyền thống Ba Na, phụ nữ thường học dệt từ rất sớm – khi mới là những cô bé giúp mẹ xe sợi, phơi bông. Nghề dệt không chỉ là kỹ năng sinh tồn, mà là nghệ thuật của sự kiên nhẫn và niềm tự hào về bản sắc.

Sự tập trung cao độ tạo nên vẻ đẹp của người phụ nữ Ba Na.

Bà Siêu Bích Ngọc (đại diện nhóm người dân tộc Ba Na hiện đang sinh sống lại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam) nhớ lại kỷ niệm lần đầu tập dệt: “Từ hồi 13 tuổi, tôi đã bắt đầu tập dệt. Lần đầu kéo sợi, chỉ của tôi xoăn tít, rối tung. Khi đem nhuộm thì chỉ cứ nổi cục cục, nhìn buồn cười lắm. Nhưng rồi cứ làm dần, quan sát mẹ, quan sát bà, tôi quen tay và thấy mình yêu nghề từ lúc nào không hay”.

Với người Ba Na, dệt là hành trình học suốt đời. Từ những sợi chỉ đầu tiên vụng về đến khi tạo nên tấm vải tinh xảo là cả một quá trình rèn luyện công phu, đòi hỏi tâm – trí – khéo léo. Mỗi đường chỉ là kết tinh của sự kiên trì và lòng tôn kính với truyền thống.

Trong đời sống thường nhật, trang phục Ba Na giản dị, ít hoa văn; chỉ trong những lễ hội lớn, người dân mới khoác lên mình những bộ thổ cẩm rực rỡ, được dệt cầu kỳ. Đó là khoảnh khắc người Ba Na bày tỏ lòng thành kính với tổ tiên, thần linh, đồng thời tôn vinh vẻ đẹp và bàn tay khéo léo của người phụ nữ.

Đôi tay khéo léo dệt từng sợi chỉ, tạo nên những tấm vải thổ cẩm mang đậm nét văn hóa. Mỗi hoa văn là một câu chuyện, một phần di sản được truyền giữ qua nhiều thế hệ.

Ngày nay, những tấm vải dệt không chỉ dùng để may váy, áo, khố truyền thống mà còn được sáng tạo thành túi, khăn, phụ kiện phục vụ khách du lịch. Chính điều đó đã thổi luồng sinh khí mới vào nghề truyền thống, giúp nghề dệt thổ cẩm Ba Na bước ra khỏi phạm vi bản làng để hòa mình vào đời sống đương đại.

Theo Ban quản lý Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam, việc đưa nghề dệt Ba Na vào không gian trình diễn và trải nghiệm là một phần trong hoạt động bảo tồn di sản phi vật thể. Không chỉ là nghề thủ công, đó còn là câu chuyện văn hóa, là sự giao lưu giữa các dân tộc Việt Nam. Các sự kiện thường niên như: Ngày hội Văn hóa Tây Nguyên, tái hiện Lễ cúng giọt nước,... thu hút đông đảo khách tham quan. Ở đó, du khách không chỉ xem mà còn được chạm, thử, cảm nhận – như được sống trong bản hùng ca cồng chiêng, thổ cẩm, nhà rông của người Ba Na giữa núi rừng Đồng Mô.

Trang phục truyền thống rực rỡ trong ngày lễ hội: Nam giới Ba Na mạnh mẽ với khố và áo tối màu. Nữ duyên dáng trong váy quấn chàm/đen, tô điểm hoa văn đỏ-trắng. Họ cùng nhau nhảy múa quanh ghè rượu cần, thể hiện tinh thần đoàn kết và gìn giữ văn hóa cội nguồn.

Tuy vậy, đằng sau những sắc màu ấy vẫn còn đó nỗi trăn trở. “Giờ người trẻ trên bản ít còn mặn mà với nghề. Nhiều đứa đi học xa, làm việc khác. Chúng tôi chỉ mong có thêm lớp trẻ nối tiếp, để nghề không mất đi”, bà Siêu Bích Ngọc bày tỏ lo lắng.

Giữa nhịp sống hiện đại, hình ảnh những người phụ nữ Ba Na cần mẫn bên khung cửi ở Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam vẫn mang đến một thông điệp giản dị mà sâu sắc.

Từ tiếng khung cửi vang vọng giữa núi rừng Đồng Mô, nghề dệt của người Ba Na đang lặng lẽ nối những sợi chỉ của quá khứ, hiện tại và tương lai, dệt nên tấm thổ cẩm mang đậm hồn cốt Tây Nguyên giữa lòng Thủ đô.

  • Nội dung: THU TRANG
  • Ảnh: TƯ LIỆU, MINH ANH, TRÂM ANH, THU TRANG
  • Kỹ thuật, đồ họa: THU TRANG