80 năm quốc phòng - ngoại giao: Hai mặt trận, một mục tiêu - Bài 1: “Chiêng to, tiếng lớn”

Hơn 80 năm qua, lịch sử cách mạng Việt Nam đã khẳng định: Sự kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng và ngoại giao, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là nhân tố quan trọng hàng đầu làm nên những thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Trên chiến trường, thắng lợi quân sự tạo thế và lực áp đảo; trên bàn đàm phán, ngoại giao khéo léo củng cố, chuyển hóa chiến thắng thành thành quả pháp lý và chính trị quốc tế. Kết tinh trí tuệ, bản lĩnh và khát vọng Việt Nam - hai mặt trận luôn đồng hành, bổ trợ cho nhau vì mục tiêu độc lập, thống nhất, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó không chỉ là bài học lịch sử sâu sắc, mà còn là phương thức chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hôm nay.

Báo Quân đội nhân dân giới thiệu loạt bài: “Quốc phòng và đối ngoại: Hai mặt trận, một mục tiêu – Vì độc lập, thống nhất, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Trong suốt hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước (1945–1975), sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sức mạnh quân sự trên chiến trường và bản lĩnh ngoại giao trên bàn đàm phán đã trở thành một nghệ thuật độc đáo, làm nên những thắng lợi vẻ vang của dân tộc ta. Từ tiếng sấm Điện Biên Phủ đến Hội nghị Geneva (1954), từ những chiến thắng trên chiến trường kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến bàn đàm phán Paris (1973) với thế trận “vừa đánh vừa đàm” đã khẳng định chân lý Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng. Cái chiêng có to, tiếng mới lớn”.

Sách lược ấy là sự kế thừa truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc, đặc biệt là nhận thức sâu sắc về mối quan hệ gắn bó, biện chứng giữa đấu tranh quân sự và ngoại giao xuất phát từ điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam.

Ngay trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng ta đã nắm bắt tình hình, phân tích, dự báo đúng xu thế thời cuộc để kịp thời đề ra đường lối đấu tranh phù hợp. Trên mặt trận ngoại giao, ta kiên định phương châm “thêm bạn, bớt thù”, đứng về phía phe Đồng minh, góp phần vào thắng lợi chung của nhân loại chống phát xít. Trên mặt trận quân sự, nhờ chuẩn bị chu đáo lực lượng, nắm thời cơ “ngàn năm có một”, toàn dân tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trên phạm vi cả nước, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thành công đó minh chứng cho sự kết hợp giữa ngoại giao, chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang cách mạng làm nên thắng lợi nhanh gọn, triệt để và ít đổ máu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và đại diện nước Pháp tại thời điểm ký Hiệp định sơ bộ 6-3-1946. Ảnh tư liệu

Trong tình thế đầy cam go “ngàn cân treo sợi tóc” khi chính quyền cách mạng non trẻ phải cùng lúc đối phó với nhiều kẻ thù, ngoại giao trở thành “lá chắn mềm” vừa bảo vệ chính quyền, vừa kéo dài thời gian hòa hoãn, tạo điều kiện chuẩn bị lực lượng cho kháng chiến lâu dài. Những bước đi ngoại giao sáng suốt của Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) và Tạm ước (14-9-1946) cùng những nỗ lực không ngừng tại các Hội nghị Đà Lạt và tại Fontainebleau, đã đưa đất nước vào thế tối ưu nhất có thể trong hoàn cảnh ngặt nghèo khi đó. Đặc biệt, với Hiệp định sơ bộ Việt - Pháp, ta đã biến thỏa thuận tay đôi Hoa - Pháp thành thỏa thuận Việt - Pháp - Hoa, đẩy 20 vạn quân Tưởng về nước để tập trung lực lượng đối phó với thực dân Pháp.

Theo Đại tá, Ths Vũ Văn Khanh, nguyên Trưởng ban Quốc tế, Viện Chiến lược và Lịch sử quốc phòng Việt Nam, đây được coi là một trong những sự kết hợp mẫu mực giữa quân sự và ngoại giao: Khéo léo lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù để phân tán sức mạnh của chúng, đồng thời thể hiện nghệ thuật ngoại giao nhân nhượng có nguyên tắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngoại giao “trì hoãn chiến tranh”, tạo điều kiện cho quân sự chuẩn bị kháng chiến lâu dài.

Đến năm 1950, mặt trận ngoại giao đạt bước tiến vượt bậc khi ta thiết lập quan hệ chính thức với nhiều nước xã hội chủ nghĩa, phá thế bị cô lập và tranh thủ được sự ủng hộ, viện trợ quốc tế. Đây là cơ sở quan trọng để quân dân ta giành thắng lợi trong Chiến dịch Biên giới 1950, mở ra cục diện mới, tiến tới đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ.

Thực tiễn kháng chiến chống Pháp chứng minh: Quân sự tạo thế buộc đối phương phải đàm phán, còn ngoại giao hiện thực hóa chiến thắng, biến thành quả quân sự thành thắng lợi pháp lý quốc tế. Hiệp định Geneva 1954 là minh chứng điển hình: Chiến thắng Điện Biên Phủ đã tạo thế và lực áp đảo, để đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bước vào hội nghị với tư thế của một dân tộc chiến thắng. Bởi trước đó ở lòng chảo Điện Biên Phủ, dù hứng chịu thất bại liên tiếp ở Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo, rồi bị bao vây toàn diện tại Mường Thanh, thực dân Pháp vẫn nuôi hy vọng xoay chuyển cục diện. Nhưng ngày 7-5-1954, toàn bộ Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp buộc phải đầu hàng. Chỉ một ngày sau, 8-5-1954, Hội nghị Geneva vốn trước đó được triệu tập chủ yếu để bàn về vấn đề Triều Tiên, đã phải mở rộng đưa vấn đề Đông Dương vào chương trình nghị sự.

Ngày 7-5-1954, toàn bộ Tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ bị tiêu diệt. Lá cờ “Quyết chiến, Quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries, kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp oanh liệt đầy hy sinh, gian khổ kéo dài suốt 9 năm. Ảnh tư liệu

Ảnh trái: Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến Thụy Sĩ dự Hội nghị Geneva về Đông Dương, tháng 5-1954. Ảnh phải: Toàn cảnh Hội nghị Geneva về Đông Dương tại Thụy Sĩ (1954).

Tiếng sấm từ Điện Biên Phủ dội đến Geneva, được nhà thơ Tố Hữu khắc họa:

“Đồng chí Phạm Văn Đồng

Ở bên đó, chắc đêm nay không ngủ

Tin đây Anh, Điện Biên Phủ hoàn thành”

Tiếng sấm chiến trường đã tạo tiếng vang ngoại giao, làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của thực dân Pháp và sự can thiệp thô bạo của đế quốc Mỹ. Chính thắng lợi Điện Biên Phủ đã quyết định cục diện chiến tranh và trở thành chủ đề chính của Hội nghị Geneva. Từ chỗ bị xem nhẹ, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã trở thành tâm điểm chú ý của quốc tế. Trong bối cảnh đó, đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bước vào hội nghị với tư thế chủ động, quyết tâm “thắng trên chiến trường, thắng cả trên bàn đàm phán”.

Nhằm tiếp tục phối hợp với cuộc đấu tranh ngoại giao tại Geneva, tháng 6-1954, thực hiện chỉ thị của Bộ Tổng Tư lệnh, quân và dân ta đẩy mạnh hoạt động quân sự và liên tiếp giành thắng lợi ở đồng bằng Bắc Bộ. Nhiệm vụ trọng tâm là duy trì thế tiến công, tiêu diệt và tiêu hao sinh lực địch, chống càn quét, bắt lính, đồng thời củng cố và mở rộng các căn cứ, khu du kích, buộc địch phải rút bỏ nhiều vị trí, tạo sức ép trực tiếp hỗ trợ cho mặt trận ngoại giao. Mặt khác, từ ngày 4 đến 27-7-1954, tại Trung Giã (Đa Phúc, Vĩnh Phúc, nay là xã Trung Giã, thành phố Hà Nội) đã diễn ra Hội nghị quân sự tại chỗ giữa đoàn đại biểu Quân đội nhân dân Việt Nam và Bộ Tổng chỉ huy quân đội Pháp. Đây là cuộc đàm phán chính thức đầu tiên giữa hai bộ tổng tư lệnh, diễn ra căng thẳng, quyết liệt, tập trung vào những vấn đề then chốt: Tù binh, thực hiện ngừng bắn, điều chỉnh khu vực tập kết quân đội, thành lập Ủy ban Liên hợp quân sự và chuẩn bị điều kiện thi hành Hiệp định Geneva đúng thời hạn.

Quang cảnh Hội nghị Trung Giã. Ảnh của Tạp chí Life

Trải qua hơn hai tháng đấu trí căng thẳng, Hiệp định đình chỉ chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương đã được ký kết (21-7-1954). Dù chưa phản ánh trọn vẹn thắng lợi của quân ta trên chiến trường, bởi đó còn là một “bàn cờ quốc tế” với sự chi phối của nhiều cường quốc, nhưng Hiệp định Geneva có sự công nhận của Pháp và các nước lớn (trừ Mỹ) đã tạo ra bước ngoặt lịch sử cho cách mạng Việt Nam, ta giải phóng một nửa đất nước, đặt cơ sở pháp lý và tính chính nghĩa để nhân dân ta kiên quyết tiến lên hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước.

Ảnh trái: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký Hiệp định Geneva. Ảnh phải: Cầu Hiền Lương (1956-1964) phía bờ Bắc với những khẩu hiệu thể hiện khát vọng thống nhất Tổ quốc.

Nếu Hội nghị Geneva 1954 là khởi đầu, thì Hội nghị Paris 1973 đã đưa nghệ thuật “vừa đánh, vừa đàm” lên tầm cao mới, trở thành nhân tố quyết định làm nên thắng lợi trước siêu cường số một thế giới. Quá trình ấy, dù đối phương luôn tìm cách trì hoãn và gây bất lợi, nhưng dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng, bằng ý chí quyết chiến trên chiến trường cùng sự khéo léo, bản lĩnh trên bàn đàm phán, ta đã từng bước đưa chúng vào thế bị động, cô lập và buộc phải chấp nhận các điều kiện do ta đề ra.

Nói chuyện với Đoàn đại biểu Chính phủ ta chuẩn bị lên đường đàm phán với Mỹ tại Hội nghị Paris (tháng 5-1968), Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Các chú đi Pháp, ở nhà người ta đánh cho các chú phát huy, nghĩa là phải biết tận dụng thắng lợi trên chiến trường để làm “vốn" đàm phán. Phải phối hợp quân sự với ngoại giao, vừa đánh, vừa đàm mới có hiệu quả cao nhất”.

Năm 1965, để cứu vãn sự sụp đổ của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh trực tiếp tham chiến ở miền Nam Việt Nam hòng giành lại thế chủ động, “bình định” miền Nam trong vài năm. Thế nhưng, hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, những đòn phản công quyết liệt của Quân Giải phóng ở Núi Thành, Ba Gia, Bình Giã… đã đánh thẳng vào cốt lõi của chiến lược “tìm diệt” và “bình định”, khiến quân viễn chinh Mỹ chịu tổn thất nặng nề, dư luận Mỹ sục sôi phản đối.

Giữa năm 1965, Mỹ ồ ạt đưa quân và phương tiện chiến tranh vào miền Nam Việt Nam. Ảnh: TTXVN

Trong bối cảnh đó, Tổng thống Johnson buộc phải tuyên bố “sẵn sàng gặp bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào để bàn về hòa bình”. Tuy nhiên, trên thực địa, quân Mỹ tiếp tục leo thang, huy động tối đa lực lượng cho chiến lược “tìm diệt”.

Do vậy, trước năm 1967, ta vẫn chưa áp dụng được sách lược “vừa đánh, vừa đàm”, bởi theo nhận định từ Hội nghị Trung ương 13 (1-1967) của Đảng: Mỹ còn nuôi ảo tưởng rằng chỉ cần ồ ạt đưa quân vào miền Nam là có thể giành thắng lợi. Nhưng bước sang năm 1967, tình hình đã căn bản đổi khác. Thất bại của chiến lược “Chiến tranh cục bộ” khiến Mỹ rơi vào thế bị động quân sự, khó khăn nội bộ chồng chất, lại bị cô lập, lên án mạnh mẽ trên trường quốc tế. Tình hình đó là hoàn toàn bất lợi đối với Mỹ trước thềm cuộc bầu cử tổng thống năm 1968, nhưng là thời cơ thuận lợi để cách mạng Việt Nam mở một thế trận đấu trí, đấu lực mới.

Nắm bắt đúng thời cơ, Trung ương Đảng chủ trương mở thêm mặt trận ngoại giao, kết hợp chặt chẽ với quân sự và chính trị, hình thành thế chiến lược tiến công toàn diện. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 13 nhấn mạnh: “Đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp. Đấu tranh quân sự phải kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị để mau chóng làm tan rã lực lượng địch. Đấu tranh ngoại giao phải phục vụ cho quân sự và chính trị, mặt khác quân sự và chính trị thắng lợi sẽ tạo điều kiện cho ngoại giao phát triển”.

Ảnh trên: Tiểu đoàn Quyết Thắng quân Giải phóng và chiến lợi phẩm thu được trong trận chiến thắng Nhuận Đức, Củ Chi, ngày 9-5-1965. Ảnh dưới: Xác chiếc máy bay Mỹ F104 bị bộ đội và du kích xã Cẩm Sơn, Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho bắn rơi ngày 5-3-1966. Ảnh phải: Một đơn vị súng ĐK 75 quân Giải phóng đã lập thành tích xuất sắc bắn tan xác 13 xe bọc thép của Mỹ, mùa khô 1965-1966. Ảnh tư liệu Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Nghị quyết giải thích rõ: Trong khi ở miền Nam, quân dân ta tiếp tục đánh để giành thắng lợi quyết định, thì đồng thời có thể tiến hành tiếp xúc, hội đàm với Mỹ trên bàn thương lượng. Đảng ta nhấn mạnh, để thực hiện thành công sách lược này phải luôn giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ; kiên định mục tiêu chiến lược, đồng thời biết cơ động, linh hoạt, lợi dụng mọi kẽ hở và mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương. Ngoại giao không chỉ phản ánh kết quả chiến trường mà trở thành một mũi tiến công chủ động, song hành với quân sự và chính trị, tạo thế và lực cho cách mạng tiến tới thắng lợi cuối cùng.

Để phát huy hiệu quả sách lược “vừa đánh, vừa đàm”, Đảng xác định nhiệm vụ cấp bách là phải tổ chức được những đợt hoạt động quân sự quy mô lớn, có sức xoay chuyển cục diện, giáng đòn trực tiếp vào ý chí xâm lược của Mỹ. Chỉ bằng những thắng lợi mang tính quyết định trên chiến trường, mới có thể buộc Washington xuống thang chiến tranh, tạo điều kiện cho ngoại giao giành thế chủ động.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí trong Bộ Chính trị họp bàn và ra Nghị quyết về "Tổng công kích, tổng khởi nghĩa" vào dịp Tết Mậu Thân 1968. Ảnh tư liệu

Từ trái sang phải: Tiến đánh Bộ tổng tham mưu ngụy tại Sài Gòn đêm 30, rạng ngày 31-1-1968. * Chiến sĩ giải phóng quân Trị Thiên-Huế nghiên cứu sa bàn, chuẩn bị cho trận đánh Tiểu đoàn 7 thiết giáp ngụy ở Tam Thai (Huế) ngày 31-1-1968. * Chiến sĩ quân giải phóng Huỳnh Bá Liên dùng mìn đánh Đài Phát thanh Sài Gòn, đêm 31-1 rạng sáng 1-2-1968. * Nữ chiến sĩ quân giải phóng, xạ thủ trung liên Nguyễn Thị Khanh tham gia đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất, đêm 31-1, rạng sáng 1-2-1968.

Đêm 29, rạng sáng 30-1-1968, cả miền Nam rung chuyển bởi đòn tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt của quân và dân ta. Dư luận Mỹ chấn động, bàng hoàng. Làn sóng phản chiến bùng nổ trong lòng nước Mỹ, uy tín quốc tế của Washington suy giảm nghiêm trọng. Nếu năm 1967, Washington còn nuôi tham vọng “đàm phán trên thế mạnh”, thì sau sự kiện Tết Mậu Thân, mọi toan tính ấy hoàn toàn sụp đổ.

Ngày 31-3-1968, Tổng thống Johnson buộc phải tuyên bố đơn phương chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, sẵn sàng cử đại diện đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời thừa nhận sẽ từng bước rút quân Mỹ khỏi miền Nam.

Sau đợt 1 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, Mỹ phải đơn phương tuyên bố hạn chế ném bom phá hoại miền bắc và chính thức gợi ý về một giải pháp ngoại giao, đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Trước tình hình mới, mặc dù phía Mỹ chưa đáp ứng đầy đủ các điều kiện mà ta đề ra, nhưng Trung ương Đảng đã kịp thời cân nhắc, lựa chọn thời cơ. Ngày 3-4-1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố: “Sẵn sàng cử đại diện của mình tiếp xúc với đại diện Mỹ nhằm xác định với phía Mỹ việc Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và các hoạt động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để có thể bắt đầu cuộc nói chuyện”. Đây là bước ngoặt thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng ta: Tận dụng thắng lợi quân sự để mở cánh cửa ngoại giao, đưa Mỹ từ thế chủ động gây chiến sang thế bị động phải thương lượng.

Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Bộ Chính trị ngày 9-4-1968 căn dặn việc chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ Việt-Mỹ trước Hội nghị Paris. Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh

Tuy nhiên, dù buộc phải xuống thang, Washington vẫn tìm cách trì hoãn, không muốn bước vào thương lượng trong tình thế bất lợi bằng cách vừa kéo dài thời gian, vừa tăng cường hoạt động quân sự ở miền Nam hòng giải tỏa áp lực từ các đòn tiến công của Quân Giải phóng.

Về phía ta, tranh thủ những diễn biến có lợi trên chiến trường, ngày 3-5-1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố chọn Paris là địa điểm, tiến hành tiếp xúc và ấn định thời điểm khai mạc phiên họp. Quyết định này đã đặt Mỹ vào thế bị động buộc phải chấp nhận các điều kiện do Việt Nam đưa ra.

Rõ ràng, những tổn thất nặng nề về lực lượng, cùng với những bế tắc trên chiến trường, khiến dư luận Mỹ phẫn nộ, đòi chính quyền Johnson tìm kiếm giải pháp rút ra khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam. Không còn cách nào khác, Washington buộc phải ngồi vào bàn đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở đầu cho một giai đoạn đấu trí, đấu lực quyết liệt trên mặt trận ngoại giao.

Toàn cảnh Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam.

Đầu năm 1969, Hội nghị Paris bước sang giai đoạn đàm phán bốn bên, song các cuộc thương lượng vẫn chưa đi vào thực chất. Trên chiến trường, nửa cuối năm 1969, cách mạng miền Nam gặp không ít khó khăn. Lợi dụng tình hình, Mỹ triển khai chính sách “tiến công hòa bình” với quy mô ngoại giao chưa từng có kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai: Lôi kéo nhiều nước Tây Âu, Bắc Âu, châu Á, châu Phi, thậm chí một số nước xã hội chủ nghĩa và Không liên kết tham gia làm trung gian. Mục tiêu của Washington là đánh lừa dư luận quốc tế, tạo thêm thế mạnh cho chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Mỹ kiên trì giằng dai trên bàn đàm phán, cố tình gây bế tắc nhằm tìm kiếm lợi thế quân sự trên chiến trường để áp đặt điều kiện có lợi cho mình.

Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 18 (1-1970) chỉ rõ: Mỹ vẫn hạ thấp vai trò của Hội nghị Paris, đưa ra đề nghị hòa bình giả tạo để che đậy âm mưu tiếp tục xâm lược. Đảng ta khẳng định: Chỉ khi Mỹ phải hứng chịu những thất bại nặng nề hơn, khi âm mưu “Việt Nam hóa chiến tranh” phá sản, thì chúng mới buộc phải đi vào thương lượng nghiêm chỉnh.

Từ nhận định chiến lược đó, cuối năm 1970, Bộ Chính trị hạ quyết tâm: “Phải đánh cho quân Mỹ bị thua đau hơn nữa, đánh cho ngụy quân, ngụy quyền phải sụp đổ.” Biến quyết tâm thành hành động, những năm 1971–1972, quân và dân ta liên tiếp mở những chiến dịch quy mô lớn, đánh bại các cuộc hành quân và càn quét của Mỹ – ngụy ở Campuchia, Nam Lào. Năm 1971, Quân Giải phóng miền Nam phối hợp với lực lượng cách mạng Lào và Campuchia đánh bại chiến dịch “Lam Sơn 719”, “Toàn thắng 1-71” và “Quang Trung 4” của địch. Ngày 30-3-1972, quân và dân Việt Nam mở cuộc tiến công chiến lược quy mô lớn, đồng loạt trên nhiều mặt trận: Trị – Thiên, Khu V, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Chỉ trong 3 tháng, ta tiêu diệt và làm tan rã hơn 11 vạn quân địch, trong đó có 2 sư đoàn và 11 trung đoàn bộ binh, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị và nhiều vùng chiến lược ở miền Nam, đưa gần một triệu dân về với cách mạng.

Thắng lợi vang dội ấy không chỉ làm rung chuyển chiến trường miền Nam mà còn tác động trực tiếp đến bàn đàm phán Paris. Chính quyền Nixon lúng túng, tìm cách đối phó bằng cả thủ đoạn ngoại giao và quân sự: Một mặt tìm cách chia rẽ Việt Nam với các đồng minh chiến lược, mặt khác đơn phương tuyên bố “ngừng vô thời hạn” đàm phán Paris (21-3-1972), đổ lỗi cho Việt Nam, đồng thời tái leo thang chiến tranh. Ngày 6-4-1972, Mỹ nối lại ném bom miền Bắc và tháng 5-1972 tiến hành thả mìn phong tỏa các cảng biển, hòng cắt đứt nguồn tiếp tế ở miền Bắc Việt Nam - hành động quay trở lại con đường “tái Mỹ hóa chiến tranh”.

Bộ Chính trị chỉ thị cho Đoàn đàm phán Việt Nam tại Paris: Thời gian không ủng hộ địch. Do đó, Mỹ muốn giải quyết mau để giảm bớt khó khăn của chúng nhưng ta không bị động theo chúng. Trái lại ta phải chủ động nắm vững thời cơ để thực hiện ý đồ chiến lược. Hai phái đoàn Việt Nam đã đẩy mạnh đấu tranh trên mọi phương diện và được Chính phủ nhiều nước trên thế giới ủng hộ. Dư luận thế giới cho rằng phía Việt Nam đã tỏ rõ “thiện chí hòa bình”, kêu gọi Chính phủ Mỹ sớm chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam. Tận dụng các diễn đàn công khai, phái đoàn ta tố cáo sự ngoan cố của Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn, đồng thời, nêu cao lập trường chính nghĩa và thiện chí hòa bình.

Ảnh trái: Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ tại buổi họp báo quốc tế. Ảnh phải: Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ với nụ cười chiến thắng tại Hội nghị Paris.

Trước sự kiên trì đấu tranh của đoàn Việt Nam, và sức ép của dư luận, Mỹ buộc phải chấp nhận nối lại thương lượng. Tuy nhiên, ngay trong phiên khai mạc (20-11-1972), đại diện Mỹ lại một lần nữa cố tình trì hoãn khi đưa ra hàng loạt điều kiện mới có lợi cho Washington và ngụy quyền Sài Gòn: Phủ nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, đòi quân đội miền Bắc rút khỏi miền Nam, yêu cầu ngừng bắn đồng thời ở Việt Nam, Lào và Campuchia, buộc lực lượng cách mạng Đông Dương rút về trong biên giới quốc gia...

Đảng ta nhận định: Đối phương chắc chắn sẽ có những hành động quân sự ác liệt hơn nhằm gây sức ép. Quả đúng như vậy. Từ ngày 18 đến 29-12-1972, Tổng thống Nixon ra lệnh mở cuộc tập kích chiến lược bằng B-52 vào Hà Nội, Hải Phòng và nhiều địa phương miền Bắc. Âm mưu áp dụng một trận tiến công hủy diệt như đã làm với Bình Nhưỡng trước khi rút quân khỏi Triều tiên, qua đó ép Việt Nam nhượng bộ thêm.

Chiến thắng Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không cuối năm 1972 bắn rơi nhiều máy bay hiện đại nhất của không quân Mỹ, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris, rút quân về nước.

Song, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân miền Bắc đã kiên cường chiến đấu suốt 12 ngày đêm, đánh bại cuộc tập kích chiến lược quy mô lớn nhất của Mỹ. Chiến thắng vang dội “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” không chỉ bẻ gãy ý đồ quân sự cuối cùng của Mỹ, mà còn tạo thế áp đảo cho ta giành thắng lợi trên bàn đàm phán Paris.

Một điều cần lưu ý là: Khi Việt Nam khởi xướng chiến lược “vừa đánh, vừa đàm”, ta chưa lập tức nhận được sự đồng tình, ủng hộ trọn vẹn từ các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Ban đầu, cả Trung Quốc và Liên Xô đều tỏ ra dè dặt, thậm chí lo ngại ta có thể rơi vào thế bị động, nhượng bộ trên bàn đàm phán. Song, với tinh thần độc lập, tự chủ, Đảng ta kiên định giải thích, thuyết phục và bằng thực tiễn chiến trường chứng minh tính đúng đắn của sách lược này. Sau đó, bạn bè quốc tế phải nhìn nhận: Đàm phán, khi gắn chặt với thế thắng trên chiến trường, trở thành một mũi tiến công sắc bén, thúc đẩy cục diện đi đến thắng lợi.

Đồng chí Nguyễn Duy Trinh - Bộ trưởng Ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký Hiệp định Paris, 27-1-1973 (Ảnh tư liệu. Bảo tàng Lịch sử quốc gia)

Nhấn mạnh ý nghĩa quyết định của chiến thắng trên chiến trường, ông Trịnh Ngọc Thái, thành viên Đoàn đàm phán Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại Hội nghị Paris, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Cộng hòa Pháp nhận xét: Nếu không có cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968 thì Mỹ chưa chịu ngồi vào thương lượng, nếu không có “Điện Biên Phủ trên không” thắng lợi thì Mỹ cũng chưa chịu ngồi lại để ký hiệp định một cách nhanh chóng trong vòng một tháng như đã diễn ra. Nếu không có Hiệp định Pari quy định toàn bộ quân Mỹ và đồng minh rút khỏi miền Nam Việt Nam cũng như chiến thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh thì cũng không có ngày 30-4-1975 nhanh chóng như vậy.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (1-1967) chỉ rõ: Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những gì mà chúng ta đã giành được trên chiến trường. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động.

Đây là bài học lịch sử được Đảng ta vận dụng sáng tạo trong chỉ đạo kết hợp quốc phòng và ngoại giao ở các giai đoạn sau này, vừa kiến thiết đất nước, phá thế bao vây, cấm vận, vừa giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định cho hội nhập và phát triển.

Bài 2: Phá thế bao vây, cấm vận, bảo vệ vững chắc chủ quyền, lãnh thổ

  • Nội dung: NGUYỄN VĂN DUYÊN
  • Ảnh: Tư liệu, TTXVN
  • Kỹ thuật, đồ họa: TÔ NGỌC