Văn nghệ sĩ với sứ mệnh chấn hưng văn hóa trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc - Bài 2: Tài hoa ra trận

Ca khúc nổi tiếng “Hát mãi khúc quân hành” có lời ca giản dị nhưng chứa đựng chân lý sâu sắc: “Dù rằng đời ta thích hoa hồng/ Kẻ thù buộc ta ôm cây súng”. Câu hát này phản ánh tâm trạng của dân tộc ta, trong đó có đội ngũ văn nghệ sĩ trong thời chiến, đã gạt đi lợi ích cá nhân để đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, hướng tới mục tiêu duy nhất là đánh đuổi ngoại xâm và tay sai, để thống nhất đất nước. Sau năm 1975, họ không chỉ tiếp tục sáng tác nâng tầm đề tài lực lượng vũ trang chiến tranh cách mạng; nhiều người quay trở lại tìm tòi nghệ thuật mà do chiến tranh không có điều kiện thực hiện.

Ngoài một số ít nhà cách mạng - văn nghệ sĩ đã xác quyết ngay từ đầu là sáng tác văn học nghệ thuật để làm công cụ tuyên truyền cách mạng, mà lá cờ đầu là nhà thơ Tố Hữu, đại đa số văn nghệ sĩ khi bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp vẫn cảm thấy mơ hồ về sứ mệnh của mình. Trong trái tim của họ luôn có tình yêu nước nồng nàn, họ tuyệt đối trung thành với Đảng, với Bác Hồ, với lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản; nhưng sáng tác thế nào để có lợi cho dân, cho nước, cho cách mạng thì chưa có một đường hướng cụ thể nào. Trường phái lãng mạn của chủ nghĩa cá nhân tiểu tư sản thành thị từ trước năm 1945 vẫn rơi rớt lại trong sáng tác của văn nghệ sĩ thời đó, điển hình là thơ không vần của Nguyễn Đình Thi.

Chân dung nhà thơ Nguyễn Đình Thi trong kháng chiến chống Pháp và bút tích chép tay bài thơ "Đất nước" (sáng tác năm 1948-1955).

Trong hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc (từ ngày 25 đến 28-9-1949), thơ không vần của Nguyễn Đình Thi, cụ thể là một số bài như: “Không nói”, “Đêm mít tinh”, “Đường núi”… được bàn luận sôi nổi. Các ý kiến của Xuân Diệu, Thế Lữ, Tố Hữu… góp ý thơ Nguyễn Đình Thi ở hai điểm: Thơ Nguyễn Đình Thi đượm buồn, rơi rớt chủ nghĩa cá nhân, trong khi cách mạng cần vui tươi, hùng tráng, cần nâng cao tính đoàn thể. Ngoài ra, thơ ông khó đọc, khó hiểu, không phù hợp với đại chúng mới thoát khỏi mù chữ.

Tiếp thu những góp ý của các đồng nghiệp, Nguyễn Đình Thi đã thu lại cái tôi cá nhân và mở rộng cái ta cộng đồng bằng cách thêm vần cho dễ đọc, dễ nhớ. Bài thơ “Đất nước” (sáng tác năm 1948-1955) đã ra đời như thế. Phải mất tới 8 năm, bài thơ “Đất nước” mới thực sự đủ hình hài, là “tổ hợp” của hai bài thơ không vần “Sáng mát trong như sáng năm xưa” và “Đêm mít tinh”. Tác phẩm được coi như cuốn biên niên sử bằng thơ hào hùng, oanh liệt, vinh quang, rực rỡ của dân tộc, giàu nhạc điệu: “Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội/ Những phố dài xao xác hơi may/ Người ra đi đầu không ngoảnh lại/ Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”, với một niềm tin mạnh mẽ: “Trán cháy rực nghĩ trời đất mới/ Lòng ta bát ngát ánh bình minh” và “Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”.

Một số tác phẩm của nhà thơ Nguyễn Đình Thi.

Một số nhà nghiên cứu văn học gần đây khi nhìn lại hiện tượng thơ không vần của Nguyễn Đình Thi tỏ ý tiếc cho ông nói riêng và cho cả nền thơ ca Việt Nam đã bỏ lỡ một cơ hội cách tân. Trên thực tế, bản thân Nguyễn Đình Thi đã tự giác thay đổi sáng tác, ông không hề nuối tiếc thì sao lại phải tiếc cho ông? Bằng chứng là trước đó một năm (1948), Nguyễn Đình Thi viết bài báo nổi tiếng “Nhận đường”, thể hiện trách nhiệm công dân của người nghệ sĩ trong giai đoạn gian lao của dân tộc: “Chúng ta đã tìm thấy bao trùm lên chúng ta, bao trùm lên gia đình, làng xóm chúng ta còn cái lớn lao chung: Ấy là dân tộc”. Ông ý thức rõ: “Văn nghệ phụng sự kháng chiến, nhưng cũng chính kháng chiến cũng đem đến cho văn nghệ nguồn cảm hứng và sức mạnh mới”. Tuyên ngôn “Nhận đường” của Nguyễn Đình Thi đã nói thay quyết tâm của lớp thế hệ văn nghệ sĩ đi theo cách mạng, xác định con đường duy nhất và rõ ràng nhất phải đi đó là phục vụ kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.

Cùng trong năm 1948, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai, Tổng Bí thư Trường Chinh - kiến trúc sư trưởng của cuộc kháng chiến chống Pháp - đã đọc bản báo cáo mang tên “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam”, nhấn mạnh: Văn nghệ là phải phục tùng chính trị và văn nghệ sĩ phải góp sức vào sự nghiệp chung, để kháng chiến thành công. Bằng lý lẽ sắc bén, Tổng Bí thư Trường Chinh cho rằng: Nếu độc lập không giữ được thì thử hỏi làm sao văn nghệ sĩ có thể tự do sáng tác, sáng tác liệu có ích gì cho cuộc đời, cho nhân dân.

Ảnh trái: Nhà thơ Nguyễn Đình Thi thứ hai, từ trái sang cùng các đồng nghiệp sơ tán trong chiến tranh chống đế quốc Mỹ. Ảnh phải: Nguyễn Đình Thi gia nhập quân đội năm 1952. Ảnh: tư liệu

Theo GS, TS Đinh Xuân Dũng, nguyên Phó chủ tịch chuyên trách Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương: Đảng lãnh đạo văn hóa, văn nghệ, trước hết và quan trọng nhất là thông qua đường lối và những quan điểm chỉ đạo của mình đối với lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Tất nhiên, đường lối, quan điểm này không phải là ý muốn chủ quan của Đảng áp đặt cho văn hóa, văn nghệ, mà bao giờ cũng là kết quả tổng hợp của sự nhận thức những đòi hỏi, mục tiêu của cách mạng, sự phát hiện, vận dụng những quy luật khách quan của đời sống xã hội, của lĩnh vực văn hóa và văn nghệ và của sự tổng kết thực tiễn bản chất, đặc trưng của bản thân văn hóa, văn nghệ dân tộc trong tiến trình lịch sử.

Từ những phân tích sâu sắc của GS, TS Đinh Xuân Dũng, rõ ràng việc thơ không vần của Nguyễn Đình Thi dù là một cơ hội cách tân thơ ca nhưng thi sĩ tài hoa không đào sâu khai phá là tất yếu. Bởi khuynh hướng này không phù hợp với thời cuộc, không phù hợp với trình độ tiếp nhận của độc giả thời bấy giờ.

Cũng như Nguyễn Đình Thi, các văn nghệ sĩ nhanh chóng ý thức sáng tác nội dung và cách biểu đạt bình dị, trong sáng, là tiếng nói, hình ảnh chân thực của quần chúng kháng chiến, là lòng yêu nước, tình đồng chí, tình quân dân “cá nước”. Bên cạnh giá trị phục vụ xã hội, động viên tinh thần quân và dân ta trong cuộc đối đầu lịch sử với thực dân Pháp và sau này là đế quốc Mỹ, văn nghệ thời đại Hồ Chí Minh phát triển lên một tầm cao mới, mang phong cách hiện thực xã hội chủ nghĩa, phù hợp với tâm lý và trình độ tiếp nhận của quần chúng.

Một số hình ảnh về hoạt động văn hóa, văn nghệ sôi nổi trong kháng chiến chống Pháp.

Tuy nhiên, nếu văn nghệ chỉ “một màu” thì không đa dạng, phong phú, văn nghệ vẫn cần những cách tân đổi mới. Trong cuốn sách “Dĩ vãng phía trước” (2011) của nhà phê bình Ngô Thảo về tư liệu chuyện đời, chuyện văn một thuở, hé lộ việc nhiều nhà văn (trong đó có Nguyễn Đình Thi) vẫn ấp ủ cách tân nghệ thuật nhưng tạm gác lại vì sự nghiệp chung của cách mạng. Vậy nên, thật dễ hiểu sau năm 1975, lúc này đất nước đã hòa bình, không khí tiếp nhận đã cởi mở hơn, đa dạng hơn, trình độ dân trí cũng cao hơn, nhiều văn nghệ sĩ trở lại con đường tìm tòi nghệ thuật bị gián đoạn bởi chiến tranh. Trong ba tập thơ vào cuối đời là “Tia nắng” (1988), “Trong cát bụi” (1992) và “Sóng reo” (2001), Nguyễn Đình Thi tiếp tục sáng tác theo thể thơ không vần và những lời nói thường đậm chất thơ, chất thi sĩ, đậm chất tìm tòi, đổi mới thơ của mình. Những bài thơ không vần năm xưa của Nguyễn Đình Thi được in lại không sửa chữa, được công chúng đón nhận, yêu thích. Câu chuyện về thơ không vần của Nguyễn Đình Thi là ví dụ thích hợp với đúc kết của nhà triết học Hegel: “Cái gì tồn tại là hợp lý, cái gì hợp lý sẽ tồn tại”.

Một số hình ảnh về nhà thơ Nguyễn Đình Thi qua các thời kỳ.

Dù đều sinh ra từ khói lửa chiến trường, song văn nghệ sĩ thành danh trong kháng chiến chống Mỹ khác với thế hệ đàn anh trong kháng chiến chống Pháp ở một điểm rất quan trọng: Họ không phải thay đổi tư tưởng cốt lõi trong sáng tạo. Đơn giản họ sinh ra và lớn lên khi xu hướng văn nghệ về đề tài lực lượng vũ trang chiến tranh cách mạng đã là chủ đạo, hình tượng cán bộ cách mạng, Bộ đội Cụ Hồ đã là nhân vật trung tâm của thời đại. Đặc biệt khi đế quốc Mỹ đưa quân vào miền Nam và đánh phá miền Bắc, không khí xã hội sôi sục, dâng cao ý chí đánh bại quân xâm lược để thống nhất đất nước.

Nhiều văn nghệ sĩ tài hoa đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Hàng trên từ trái qua: Nhà thơ Lê Anh Xuân, nhà thơ Nguyễn Mỹ, nhà văn Chu Cẩm Phong. Hàng dưới: Nhà văn Nguyễn Thi, nhạc sĩ Hoàng Việt, nhà văn Dương Thị Xuân Quý.

Một khi đã thống nhất về tư tưởng, nhận thức, cốt yếu là phô diễn khả năng biểu đạt. Điển hình là “mùa vàng” thơ ca chống Mỹ; bề ngoài tưởng là một “dàn đồng ca” nhưng nếu đọc kỹ sẽ thấy mỗi nhà thơ có một giọng điệu không thể trộn lẫn: Phạm Tiến Duật dữ dội, Nguyễn Khoa Điềm triết luận, Nguyễn Đức Mậu khắc khoải, Hoàng Nhuận Cầm tươi trẻ, Lê Anh Xuân hào sảng, Nguyễn Mỹ day dứt... Chính sự đa dạng giọng điệu đó đã đưa thơ chống Mỹ đến vị trí vững chắc trong văn học Việt Nam hiện đại.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước không chỉ kéo dài mà mức độ ác liệt là chưa từng thấy. Số lượng văn nghệ sĩ hy sinh trên chiến trường rất nhiều, để lại bao tiếc thương cho công chúng: Nhà thơ Lê Anh Xuân, nhà thơ Nguyễn Mỹ, nhà thơ Nguyễn Trọng Định, nhà thơ Dương Thị Xuân Quý, nhà văn Nguyễn Thi, nhà văn Chu Cẩm Phong, nhạc sĩ Hoàng Việt, họa sĩ Lê Hoàng Anh, nhiếp ảnh gia Lương Nghĩa Dũng, nhà quay phim Nông Văn Tư… Thực sự những văn nghệ sĩ tài hoa ra trận trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước dù có khoác áo lính hay không, họ xứng đáng được gọi là chiến sĩ bởi tinh thần xung kích, vũ khí đánh giặc chính là những tác phẩm mang hơi thở nóng bỏng chiến trận.

Nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Khánh (1936-2023) - Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2022.

Trong số những người may mắn trở về, nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Khánh (1936-2023) là nhân chứng sống ở chiến trường Cà Mau ác liệt. Những bức ảnh của ông trong chiến tranh có giá trị gấp hàng nghìn, hàng vạn lời nói. Chỉ nhìn ảnh, người xem có thể thấy được sự tàn khốc của chiến tranh, cảm được sự đau đớn đến tột cùng, hay niềm vui cực độ.

Bức ảnh “Trạm quân y dã chiến” chụp tại rừng U Minh Hạ (Việt Nam) năm 1970 của nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Khánh và số báo The New York Times ngày 19-4-2000.

Trên số báo The New York Times ngày 19-4-2000, nhà phê bình nhiếp ảnh Margarett Loke đã nhận xét bức ảnh “Trạm quân y dã chiến” chụp tại rừng U Minh Hạ (Việt Nam) 30 năm trước là “một trong những bức ảnh giá trị nhất của phóng viên chiến trường; thậm chí xúc động hơn cả bức ảnh chụp nhóm bác sĩ quân y Mỹ hồi năm 1943 của bậc thầy ảnh phóng sự chiến trường Robert Capa”. Đó là bức ảnh ghi cảnh bác sĩ quân y đang dầm mình trong bùn nước, tiến hành ca phẫu thuật dưới tấm vải dù căng giữa rừng tràm để cứu một nữ chiến sĩ bị thương trong chiến dịch “Nhổ cỏ U Minh” của Mỹ mà nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Khánh đã chụp tháng 9-1970. Theo Margarett Loke, giữa chiến sự bao trùm, sự bình tĩnh của các nhân vật trong bức ảnh biểu lộ sức chịu đựng gian khổ, ý nghĩa nhân văn, khát vọng chiến thắng của người dân Việt Nam.

Đấy chỉ là một trong hàng trăm, hàng nghìn bức ảnh mà nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Khánh đã thu vào ống kính của mình trong những năm kháng chiến chống Mỹ của quân và dân ta tại khu rừng U Minh mà để đánh đổi, ông đã từng nhiều lần cận kề với cái chết và có những bức ảnh chụp xong, ông ngất lịm đi.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với các nghệ sĩ nhiếp ảnh. Ảnh: Ban quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Nhiếp ảnh là nghệ thuật của khoảnh khắc, người nghệ sĩ muốn có tấm ảnh chân thực buộc phải trực tiếp có mặt ở tuyến đầu. Bác Hồ từng nói với nghệ sĩ nhiếp ảnh rằng: “Phải hiểu nghề ảnh cũng là một loại hình nghệ thuật như những nghệ thuật khác, là phải phản ảnh chân thật cuộc sống của quân và dân ta. Muốn làm được điều đó phải đi vào đời sống của các tầng lớp nhân dân đang quyết tâm kháng chiến cứu nước”. Với chiếc máy ảnh cũ kỹ và “lưng vốn” thu được khi còn làm thí công ở một hiệu ảnh ở Sài Gòn và những tháng ngày tự trui rèn tay nghề, Võ An Khánh đã xông thẳng vào chiến trường U Minh, cùng dầm mưa, dãi nắng, ghi lại chân thực nhất những khoảnh khắc đau thương, bi tráng, lạc quan nhất của quân và dân ta. Những bức ảnh của Võ An Khánh là những bằng chứng sinh động, rõ nét về sự tàn khốc của chiến tranh, về tinh thần “quyết chiến, chiến thắng” của quân dân ta dẫu có phải hy sinh, chứ nhất định không chịu mất nước.

Tác phẩm của Võ An Khánh là tài liệu lịch sử vô giá về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Ảnh chiến tranh của Nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Khánh được đánh giá cao không chỉ có vẻ đẹp hiện thực mà còn đầy chất thơ.

Những nghệ sĩ nhiếp ảnh trong 20 năm đối đầu với quân thù đã sống và cống hiến hết mình, thậm chí hy sinh cả tính mạng vì độc lập và thống nhất đất nước. Tính ra đã có hơn 100 nghệ sĩ nhiếp ảnh ngã xuống trên khắp mặt trận. Sự hy sinh của họ đã phát huy ưu thế của nhiếp ảnh là lưu giữ những thời khắc trọng đại của quân và dân ta, mãi khắc ghi trong lịch sử dân tộc những pho sử bằng vàng.

Hòa bình lập lại, những đôi chân không mỏi tiếp tục rong ruổi khắp mọi miền đất nước, thu vào ống kính những thời khắc “chuyển mình” của đất nước. Nhiếp ảnh ấn tượng bởi sự kiện, chiến tranh là bất thường nên khoảnh khắc trong chiến tranh sẽ được công chúng chú ý hơn. Nhưng đời sống hòa bình cũng có nhiều câu chuyện hấp dẫn, thú vị, ý nghĩa, đáng được nghệ sĩ nhiếp ảnh kể lại. Đó là bức ảnh “Mẹ con ngày gặp lại” của Lâm Hồng Long hay “Ngày trở về” của Lê Vấn. Những người lính giã từ vũ khí trở lại đời thường, trong vòng tay của người thân thật sự là một biểu tượng hòa bình đã về trên quê hương, cuộc sống đã hồi sinh, “vết thương” chiến tranh đã lành lặn. Một lần nữa, nhiếp ảnh cũng như các bộ môn nghệ thuật khác lại tiếp tục đồng hành với đất nước và nhân dân ở một trang sử mới.

“Mẹ con ngày gặp lại” của Lâm Hồng Long và “Ngày trở về” của Lê Vấn là những tác phẩm nhiếp ảnh tiêu biểu sau năm 1975.

Đội ngũ văn nghệ sĩ trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến, sau năm 1975 được đánh giá vẫn là lực lượng sáng tác nòng cốt của văn nghệ Việt Nam. Vậy đóng góp cụ thể của họ là gì sau năm 1975? Có điểm khác biệt nào trong sáng tác của họ trong và sau chiến tranh? Phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có cuộc trao đổi với PGS, TS Trần Khánh Thành, Phó trưởng Tiểu ban Lý luận, phê bình văn học nghệ thuật, Hội đồng Lý luận Trung ương, để tìm hiểu sự nghiệp của những nghệ sĩ-chiến sĩ trong 50 năm từ sau ngày đất nước thống nhất.

Phóng viên: 50 năm sau Ngày Chiến thắng 30-4-1975, chúng ta đã có độ lùi nửa thế kỷ để đánh giá toàn diện văn nghệ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và 80 năm nền văn học nghệ thuật cách mạng tính từ năm 1945. Theo ông, đóng góp của đội ngũ văn nghệ sĩ trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến như thế nào?

PGS, TS Trần Khánh Thành, Phó trưởng Tiểu ban Lý luận, phê bình văn học nghệ thuật, Hội đồng Lý luận Trung ương.

PGS, TS Trần Khánh Thành: Trong hai cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, chúng ta có đội quân văn nghệ sĩ - chiến sĩ đông đảo. Họ đã góp phần xây dựng một nền văn nghệ cách mạng tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đảm nhận sứ mệnh lớn lao là tham gia vào cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bảo vệ độc lập tự do của dân tộc và sự toàn vẹn non sông đất nước. Đây là nền văn nghệ kế thừa truyền thống văn nghệ yêu nước từ ngàn năm của dân tộc, được xây dựng và phát triển theo phương châm “dân tộc, khoa học và đại chúng”. Nhiều tác phẩm được viết dưới mưa bom bão đạn của quân thù, nhiều văn nghệ sĩ là chiến sĩ quân đội, vừa cầm súng đánh giặc vừa làm thơ, viết văn, soạn nhạc, quay phim. Các ca khúc “Tiếng hò trên đất Nghệ An” (Tân Huyền), “Quảng Bình quê ta ơi!” (Hoàng Vân), “Cô gái mở đường”, “Chào sông Mã anh hùng” (Xuân Giao), “Tiếng đàn Ta Lư” (Huy Thục)... các bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Anh Ngọc, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Hoàng Nhuận Cầm, Lâm Thị Mỹ Dạ... là những cảm xúc mãnh liệt trước hiện thực chiến tranh gian khổ mà anh dũng của quân và dân ta. Các vở kịch “Tiền tuyến gọi” (Trần Quán Anh), “Đại đội trưởng của tôi” (Đào Hồng Cẩm), các bộ phim tài liệu như “Ngọn cờ Hiền Lương”, “Lũy thép Vĩnh Linh”, “Bên bờ Bến Hải”, “Cồn Cỏ anh hùng” và nhiều phóng sự, ký sự, truyện ngắn của các nhà văn Nguyễn Khải, Bùi Hiển, Nguyễn Minh Châu, Xuân Thiều ... đã kịp thời phản ánh hiện thực cuộc sống của quân dân ta trên trận tuyến chống quân thù. Những tác phẩm đó nhiệt tình ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu và sản xuất, thể hiện sinh động tình cảm yêu nước nồng nàn, niềm tự hào dân tộc và tinh thần lạc quan cách mạng của quân và dân ta.

Mặc dù có những giới hạn trong phản ánh hiện thực chiến tranh nhưng đây là bộ phận văn học đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn, rất giàu tính chiến đấu, có giá trị động viên nhân dân chiến đấu và chiến thắng quân xâm lược, bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền dân tộc.

Phóng viên: Sau năm 1975, ông đánh giá về số lượng và chất lượng văn nghệ về đề tài lực lượng vũ trang chiến tranh cách mạng như thế nào?

PGS, TS Trần Khánh Thành: Sau năm 1975, văn nghệ sĩ từng tham gia hai cuộc kháng chiến có nhiều đóng góp rất nổi bật. Họ đã ra khỏi chiến tranh, nhưng dư âm chiến tranh vẫn chưa ra khỏi ký ức và cuộc sống thường nhật của họ. Nguồn cảm hứng về hiện thực chiến tranh vẫn thôi thúc họ cầm bút để bày tỏ tình cảm và suy ngẫm về hiện thực kháng chiến hào hùng của dân tộc và mặt khác để giải phóng tâm hồn mình ra khỏi những ám ảnh của chiến tranh. Xuất phát từ những thôi thúc mãnh liệt ấy mà hàng ngàn tác phẩm viết về hai cuộc chiến tranh vẫn tiếp tục ra đời.

Đội ngũ văn nghệ sĩ Quân đội là lực lượng nòng cốt sáng tác về đề tài Lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng.

Trước hết, sau năm 1975, chúng ta có một thời kỳ nở rộ của trường ca về chiến tranh chống Mỹ. Bởi vì trong kháng chiến, tiếng nói của anh chị em văn nghệ sĩ ghi lại những cảm xúc tức thời nên các ca khúc cách mạng và thơ trữ tình phát triển mạnh. Nhưng sau chiến tranh, có độ lùi lại, người ta nhìn chiến tranh, hiện thực cuộc sống chiến tranh ở tầm khái quát hơn, sâu sắc hơn. Họ có khát vọng tạo ra những tác phẩm mang tầm vóc lớn lao, phản ánh thời đại anh hùng, giàu chất sử thi và cảm hứng lãng mạn nên xu hướng viết trường ca là tất yếu. Các nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Anh Ngọc, Nguyễn Đức Mậu, Võ Văn Trực… có những trường ca thành công về hiện thực chiến tranh cách mạng và những người anh hùng của thời đại chúng ta.

Sau chiến tranh, với một độ lùi thời gian, văn nghệ sĩ có điều kiện nhìn nhận hiện thực chiến tranh đa chiều, đa diện hơn. Bên cạnh việc ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vinh quang chiến thắng, văn học nghệ thuật còn nói đến sự tàn khốc của chiến tranh, những mất mát hy sinh to lớn của quân và dân ta trong sự nghiệp cứu nước. Sau chiến tranh, văn nghệ phản ánh hiện thực một cách tương đối toàn vẹn, vừa mặt trước của huân chương, vừa phía sau huân chương, hiện thực chiến tranh vừa được nhìn nhận trong mối quan hệ với số phận dân tộc và vừa nhìn nhận từ số phận của cá nhân. Quan niệm về con người trong chiến tranh cũng có nhiều thay đổi. Trước đây, văn học nghệ thuật chúng ta miêu tả con người thiên về tính lý tưởng, sau chiến tranh con người được miêu tả với nhiều phương diện, có phần ý thức và phần vô thức, có mặt thánh thiện và có khía cạnh thấp hèn. Sau chiến tranh, nhà văn Nguyễn Minh Châu có tập truyện ngắn “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” (1983) thể hiện cách nhìn về con người khác trước. Các nhân vật trong tác phẩm của ông phức tạp hơn, có nhân vật dị biệt và ông muốn gửi một thông điệp, nhà văn không thể đòi hỏi những con người hoàn thiện, nguyên khối. Cuộc sống vốn phồn tạp, đa dạng, đa chiều, nhà văn không thể nhìn đời bề ngoài hời hợt, không thể miêu tả những nhân vật giản đơn, mang tính minh họa. Các tác phẩm của Nguyễn Trọng Oánh, Lê Lựu, Chu Lai, Nguyễn Trí Huân… trong những mức độ thành công khác nhau đã phản ánh hiện thực trong chiến tranh và sau chiến tranh chân thực, bề bộn chất phồn tạp của đời sống và những suy nghĩ sâu sắc về nhân sinh. Như vậy, đề tài chiến tranh vẫn là mối quan tâm lớn của văn nghệ sĩ từ sau năm 1975 và có nhiều thành tựu đáng trân trọng.

Phóng viên: Trong những thập niên gần đây, có một số văn nghệ sĩ “hụt hẫng” trước hiện thực thời hậu chiến khiến cho sức sáng tác và chất lượng không còn được như trước?

PGS, TS Trần Khánh Thành: Thành công của văn học nghệ thuật trong chiến tranh chính là tiếng nói của người trong cuộc. Những trải nghiệm về chiến tranh tạo nên những cảm xúc mạnh mẽ, những ấn tượng sâu sắc thôi thúc nhà văn cầm bút. Nhưng nhiều năm sau chiến tranh, những người trong cuộc dần vắng bóng, nếu còn sống thì bao tâm huyết, vốn sống đã đưa vào các phẩm rồi, không còn thời gian và tâm sức để viết tiếp nữa. Còn lớp trẻ muốn viết về đề tài chiến tranh thì phải đi tìm tư liệu, tìm hiểu lịch sử và viết về chiến tranh theo những góc nhìn khác. Vì vậy sự thưa dần những tác phẩm viết về hai cuộc kháng chiến vệ quốc của chúng ta trong thế kỷ trước cũng là chuyện bình thường. Vì vậy văn nghệ chúng ta, một mặt viết về hiện thực chiến tranh trong quá khứ đã xa hoặc sáng tác về cuộc sống hiện thực của người chiến sĩ, về lực lượng vũ trang trong cuộc sống hôm nay. Có thể tiếp tục viết về đề tài chiến tranh cách mạng, với cách nhìn mới hơn, cách tiếp cận mới hơn. Bây giờ vẫn có những người nung nấu sáng tác về Điện Biên Phủ, về kháng chiến chống Mỹ bằng nghệ thuật ngôn từ hoặc bằng nhiều loại hình nghệ thuật khác.

Hiện thực cuộc sống người lính thời bình cũng rất đa dạng, phong phú, có thể khai thác để sáng tạo những tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật...

Hiện thực cuộc sống người lính thời bình cũng rất đa dạng, phong phú, có thể khai thác để sáng tạo những tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật góp phần bồi dưỡng những chiến sĩ quân đội có bản lĩnh chính trị, có ý chí chiến đấu, có tinh thần đoàn kết, tình đồng chí, đồng đội và có tâm hồn trong sáng, cao đẹp.

Phóng viên: Từ những thành tựu trong sáng tác, tinh thần nghệ sĩ-chiến sĩ của văn nghệ sĩ trong chiến tranh, chúng ta có thể đúc rút ra kinh nghiệm gì để xây dựng đội ngũ văn nghệ sĩ trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc?

PGS, TS Trần Khánh Thành: Theo tôi nghĩ, mọi đề tài đều có tính lịch sử cụ thể nhưng đồng thời cũng có tính lâu dài. Vấn đề là văn nghệ sĩ có đầy đủ tâm huyết, đầy đủ chất liệu đời sống, đầy đủ niềm đam mê và đầy đủ tài năng để sáng tạo một tác phẩm xứng đáng với thời đại hay không. Hiện nay đất nước ta đang bước sang kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, thì văn học nghệ thuật cần phải phát huy lợi thế của mình nhằm khơi dậy truyền thống anh hùng bất khuất, sức mạnh của lòng yêu nước nồng nàn và niềm tự hào về truyền thống vẻ vang của dân tộc trong thế hệ trẻ hôm nay. Bên cạnh việc giáo dục truyền thống, khơi dậy niềm tự hào về nhân dân, dân tộc và quân đội ta, các văn nghệ sĩ cần phải đi vào đời sống người lính hôm nay, sống thật sâu sắc, hết mình cùng những người chiến sĩ. Văn nghệ sĩ cần đồng hành với những người lính đang cầm súng ở biên cương, nơi biển đảo xa xôi tìm nguồn cảm hứng và sáng tạo những tác phẩm chân thực sinh động nhằm góp phần động viên các chiến sĩ không ngừng học tập, rèn luyện, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn ông!

Chân dung người chiến sĩ hôm nay được khắc họa ấn tượng thông qua nghệ thuật nhiếp ảnh.

(còn nữa)

  • Nội dung: Nhóm Phóng viên Báo Quân đội nhân dân
  • Ảnh: Tư liệu, CTV
  • Kỹ thuật, đồ họa: TÔ NGỌC